Đặt vấn đề: Từ năm 2009, hướng dẫn chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS của Bộ Y tế Việt Nam chính thức
đề cập đến phác đồ ARV bậc 2 được chỉ định cho bệnh nhân thất bại phác đồ ARV bậc 1. Qua các dự án đã triển
khai, tính đến cuối năm 2012, trong cả nước đã có 69.882 bệnh nhân được điều trị ARV gồm 67.235 dùng phác
đồ bậc 1 và 2.314 phác đồ bậc 2. Hiện vẫn chưa có công trình quy mô về điều trị ARV phác đồ bậc 2 được công
bố. Do vậy nghiên cứu được thực hiện để khảo sát kết quả điều trị của phác đồ này tại phòng khám ngoại trú
HIV/AIDS bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP.HCM.
Phương pháp: Từ tháng 04/2011 đến 06/2013, chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả tiền cứu trên 129
bệnh nhân nhiễm HIV đã thất bại phác đồ ARV bậc 1 có chỉ định điều trị bằng phác đồ ARV bậc 2, thời gian theo
dõi 12 tháng, tuân thủ tốt (>95%). Đánh giá thất bại điều trị dựa vào lâm sàng (sụt cân, xuất hiện hoặc tái phát
nhiễm trùng cơ hội, lâm sàng giai đoạn III‐IV theo TCYTTG), miễn dịch (CD4 giảm dưới mức trước điều trị,
hoặc tăng <100 tế bào/ml, virus (tải lượng virus >250copies/ml), các xét nghiệm sinh hóa huyết học theo dõi tác
dụng phụ của thuốc.
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 576 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Kết quả điều trị phác đồ antiretrovirus bậc 2 ở bệnh nhân hiv/aids tại bệnh viện bệnh nhiệt đới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rị sớm  theo khuyến cáo của 
TCYTTG,  chuyển  đổi phác  đồ ARV bậc 2  sớm 
hơn nhằm mục đích bảo tồn hệ thống miễn dịch 
và giảm tỉ  lệ mắc bệnh nhiễm  trùng cơ hội cho 
bệnh nhân(7).  
Đáp ứng virus 
Ức chế sao chép virus  
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thực hiện  đo  tải 
lượng  virus  cho  bệnh  nhân  tại  ba  thời  điểm: 
trước điều trị ARV bậc 2, sau 6 tháng và sau 12 
tháng. Kết  quả  cho  thấy  81,5%  và  82,1%  bệnh 
nhân  đã  có  tải  lượng  virus dưới  ngưỡng  phát 
hiện sau 6 và 12 tháng. 
Thất bại virus  
Tỉ  lệ  virus  trên  ngưỡng  phát  hiện  sau  12 
tháng điều  trị  là 17,9%,  trong đó khoảng 15,3% 
bệnh nhân có tải lượng virus <5.000 bản sao/ml 
và 2,6% bệnh nhân có virus >5.000 bản sao/ml. 
Theo Hướng  dẫn  của  Bộ Y  tế(1),  thất  bại  virus 
được định nghĩa khi  tải  lượng virus >5.000 bản 
sao/ml. Do vậy, chỉ 2,6% bệnh nhân được khẳng 
định là thất bại virus.  
Tác dụng phụ của các thuốc ARV bậc 2 
Thay đổi hemoglobin 
Điều trị ARV đã cải thiện rõ rệt về lâm sàng, 
bệnh nhân hết nhiễm trùng cơ hội, sinh hoạt tốt 
hơn  đã  làm  cải  thiện  đáng kể  tình  trạng  thiếu 
máu từ Hb trung vị 11,8 ban đầu, tăng  lên 13,1 
sau 6 và 13,8 sau 12 tháng điều trị, chỉ 1,4% xuất 
hiện  thiếu máu  sau  12  tháng và  chỉ  có  2 bệnh 
nhân  điều  trị phác  đồ  có AZT  xuất hiện  thiếu 
máu nặng độ 3 hoặc 4 phải điều chỉnh công thức 
thuốc ARV.  
Thay đổi men gan  
So với trước khi điều trị, mức độ ALT giảm 
có ý nghĩa  sau 6  tháng nhưng không  thay  đổi 
trong  khoảng  thời  gian  từ  6  đến  12  tháng.  Số 
bệnh nhân có tăng men gan độ 1 hoặc 2 giảm rõ 
rệt từ 52 bệnh nhân xuống còn 30 bệnh nhân tại 
thời  điểm  6  tháng  nhưng  không  giảm  thêm 
trong 6  tháng kế  tiếp. Trên bệnh nhân có đồng 
nhiễm virus viêm gan B hoặc C cũng có kết quả 
tương tự. 
Thay đổi cholesterol, triglycerit máu, đường huyết 
Thay đổi cholestrol trong quá trình điều trị 
cho thấy cholesterol gia  tăng có ý nghĩa sau 6 
tháng  điều  trị  phác  đồ  ARV  bậc  2,  từ 
4,21mmol/l  lên  4,36  mmol/l.  Tương  tự  như 
cholesterol,  triglycerit  cũng  tăng  từ  2.54 
mmol/l  lên  3,07 mmol/l  sau  6  tháng  điều  trị, 
gia  tăng này có ý nghĩa  thống kê. Tuy nhiên, 
cả  cholesterol,  triglycerit  tăng không  đáng kể 
từ 6 đến 12 tháng.  
Thay đổi chức năng thận 
Khảo  sát  chức  năng  thận  trong  thời  gian 
nghiên  cứu  cho  thấy,  độ  thanh  lọc  creatinin 
không thay đổi sau 12 tháng điều trị. Ghi nhận 
có  1  bệnh nhân  có  creatinin máu  tăng  tại  thời 
điểm  chuyển  đổi  sang phác  đồ ARV bậc  2,  có 
thêm 1 bệnh nhân có creatinin máu  tăng  trong 
thời gian 12 tháng. Tuy nhiên chỉ  tăng nhẹ nên 
điều chỉnh thời gian dùng tenofovir 48 giờ/lần.  
Các tác dụng phụ khác 
Tương  tự  các  nghiên  cứu  tại  các  nước  có 
nguồn  lực  hạn  chế  (3,4,5),  bệnh  nhân  trong 
nghiên  cứu này, khởi  đầu ARV bậc  1  có  đến 
82% dùng công thức d4T (có tác dụng phụ rối 
loạn phân bố mỡ)  cho  đến khi  đổi  sang AZT 
theo  khuyến  cáo  Bộ  Y  tế.  Thời  gian  điều  trị 
ARV bậc  2  chỉ  trong  12  tháng. Do  đó nghiên 
cứu này không  đề  cập  tác dụng phụ  rối  loạn 
phân bố mỡ của các thuốc ARV bậc 2. 
Đánh giá phác đồ bậc 2 
Trên cùng một đối tượng nghiên cứu, trong 
thời  gian  điều  trị phác  đồ ARV  bậc  1,  có  44% 
bệnh  nhân  đổi  công  thức  1  lần,  26%  đổi  công 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nhiễm 399
thức 2  lần vì các  lý do chuyển đổi  từ d4T sang 
AZT,  thiếu máu,  viêm  gan,  dị  ứng,  tương  tác 
thuốc lao. Ngược lại, phác đồ điều trị ARV bậc 2 
có tính dung nạp cao hơn, chỉ 2 bệnh nhân phải 
chấm dứt  sử dụng AZT do  thiếu máu, 2 bệnh 
nhân bổ sung thêm ritonavir do tương tác thuốc 
lao. Tỉ  lệ  thay  đổi  công  thức  điều  trị do  thiếu 
máu trong nghiên cứu này thấp hơn các nghiên 
cứu ARV bậc 1(6,7) có lẽ do chúng tôi đã loại trừ 
AZT cho bệnh nhân có  tiền căn  thiếu máu gây 
bởi thuốc này trong lúc điều trị ARV bậc 1.  
Tử vong và mất theo dõi bệnh nhân 
Tỉ lệ bệnh nhân tử vong sau điều trị 12 tháng 
của nghiên cứu là 3,1% (4 bệnh nhân). Phân tích 
cho  thấy  tất  cả  đều  là  nam,  có  giai  đoạn  lâm 
sàng  3  hoặc  4,  CD4  trung  vị  thấp  (56  tế 
bào/mm3), chứng  tỏ các bệnh nhân đang  trong 
tình  trạng  bệnh  tiến  triển  nặng  tại  thời  điểm 
chuyển đổi sang phác đồ ARV bậc 2. 
Trong  4  trường  hợp  tử  vong,  có  đến  3 
trường  hợp  có  bệnh  lý  lao  BK  dương  tính,  1 
trường hợp nhiễm trùng huyết + viêm phúc mạc 
/xơ gan mất bù. Thực tế tỉ lệ tử vong có thể cao 
hơn bởi trong nhóm bỏ trị có 5/8 bệnh nhân có 
giai  đoạn  lâm  sàng  3  hoặc  4,  cân  nặng  trung 
bình  thấp, có  tải  lượng virus cao  tương đương. 
Tuy nhiên, chúng tôi không có thêm thông tin về 
nhóm bệnh nhân này nên không  thể  đánh giá 
được nguyên nhân tử vong thực sự.  
KẾT LUẬN 
‐ Bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS  thất bại điều 
trị bậc 1  tại  thời điểm vào nghiên cứu đa số  là 
nam (72,9%), có lứa tuổi từ 30 đến 50 (80,6%) và 
nguyên  nhân  lây  nhiễm  do  quan  hệ  tình  dục 
(63,6%). Công  thức ARV bậc 1 ban đầu có D4T 
chiếm 82,9%, thời gian điều trị trung bình là 3,5 
năm, 72,9% bệnh nhân có CD4 <100 tế bào/mm3 
và 48,1% có tải lượng virus rất cao >5 log tại thời 
điểm chuyển sang ARV bậc 2. Phát hiện thất bại 
điều  trị  ARV  bậc  1  chủ  yếu  bằng  lâm  sàng 
và/hoặc miễn dịch, có xác nhận bằng xét nghiệm 
tải lượng virus. 
‐ Đánh giá  tình  trạng kháng  thuốc  trên  các 
bệnh nhân  thất bại ARV bậc 1 qua xét nghiệm 
giải trình tự gen cho thấy hiện tượng kháng các 
thuốc ARV ở mức độ cao: Tỉ lệ kháng các thuốc 
nevirapin,  efavirens, zidovudin  lamivudin  theo 
thứ tự là 100%, 98,7%, 86,6%, 98,7%; tenofovir có 
tỉ  lệ  kháng  55%  nhưng  kháng  mức  độ  thấp 
chiếm  51,7%,  chưa  ghi  nhận  đề  kháng  LPV/r. 
Bệnh nhân có đột biến kháng >2 loại thuốc bậc 2 
ảnh hưởng nghiêm trọng lên đáp ứng điều trị, tỉ 
lệ thất bại virus tăng gấp 12,1 lần.  
‐ Điều trị ARV phác đồ bậc 2 cho kết quả khả 
quan. Tỉ  lệ bệnh nhân có giai đoạn  lâm sàng 3 
hoặc 4 giảm rõ rệt, từ 34,9% trước điều trị xuống 
còn 17,9% lúc 6 tháng và 10,3% lúc 12 tháng. Chỉ 
có  2  bệnh  nhân  thất  bại  lâm  sàng.  Tình  trạng 
miễn dịch bệnh nhân phục hồi tốt: trung vị CD4 
ban đầu  thấp  (70  tế bào), sau điều  trị số  tế bào 
CD4/mm3 tăng lên 171 sau 6 tháng và 241 sau 12 
tháng.  Đáp  ứng  virus  khá  cao:  tải  lượng  virus 
<250 bản sao/ mm3 đạt tỉ lệ 81,5% lúc 6 tháng và 
82,1% lúc 12 tháng.  
‐ Về  tác dụng phụ  của  các  thuốc ARV qua 
thời gian 12  tháng  đầu  điều  trị phác  đồ bậc 2, 
nghiên cứu ghi nhận  chỉ  có 2 bệnh nhân  thiếu 
máu do AZT,  1 bệnh nhân  tăng  creatinin phải 
chỉnh  liều  tenofovir,  không  có  bệnh  nhân  tiểu 
đường mới.  Tăng  lipid máu  là  tác  dụng  phụ 
thường gặp cần theo dõi và điều trị.  
‐ Tỉ lệ tử vong sau 12 tháng điều trị ARV là 
3,1%. Tử vong tập trung trong 6 tháng đầu điều 
trị  ARV  do  bệnh  cơ  hội  nặng  như  bệnh  lao. 
Không có sự khác biệt về đáp ứng virus đối với 
phác đồ điều trị ARV bậc 2 có hoặc không có kết 
hợp AZT. Trong các trường hợp thất bại điều trị, 
21 bệnh nhân thất bại virus (HIV‐RNA >ngưỡng 
250  bản  sao/mm3)  sau  12  tháng  điều  trị;  tuy 
nhiên,  chỉ  có  3  bệnh  nhân  có  tải  lượng  virus 
>5.000  bản  sao/ml  là  thất  bại  virus  theo  định 
nghĩa  hiện  đang  được  Bộ  Y  tế  áp  dụng.  Xét 
nghiệm tải lượng virus cần thiết để theo dõi đáp 
ứng điều trị, cải thiện tuân thủ, xác nhận thất bại 
điều trị ARV bậc 2.  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 400
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y tế (2009). ʺHướng dẫn chẩn đoán và điều trị HIV/AIDSʺ. 
Quyết định số 3003/QĐ‐BYT Ngày 19/8/2009. 
2. Bộ  Y  tế  (2012).  ʺBáo  cáo  tổng  kết  công  tác  phòng,  chống 
HIV/AIDS năm 2012 và kế hoạch công tác năm 2013”. 
3. Ferradini L, Ouk V, Segeral O, Nouhin J, Dulioust A, Hak C, 
Fournier  I,  Lerolle  N,  Ngin  S,  Mean  CV,  Delfraissy  JF, 
Nerrienet  E  (2011).  ʺHigh  efficacy  of  lopinavir/r‐based 
second‐line antiretroviral treatment after 24 months of follow 
up  at  ESTHER/Calmette  Hospital  in  Phnom  Penh, 
Cambodiaʺ. Journal of the International AIDS Society, 14, pp.14 
4. Hosseinipour MC, Kumwenda JJ, Weigel R, Brown LB, et al 
(2010).  ʺSecond‐line  treatment  in  the Malawi  antiretroviral 
programme:  high  early  mortality,  but  good  outcomes  in 
survivors, despite extensive drug resistance at baselineʺ. HIV 
medicine, 11 (8), pp.510‐8. 
5. May Myat W,  Phonrat  B, Maek ANW,  Kiertiburanakul  S, 
Sungkanuparph  S  (2011).  ʺVirologic  and  immunologic 
outcomes  of  the  second‐line  regimens  of  antiretroviral 
therapy among HIV‐infected patients in Thailandʺ. J Int Assoc 
Physicians AIDS Care 2011, (10), pp.57‐63. 
6. Nguyễn  Trần  Chính,  Nguyễn  Hữu  Chí,  Võ Minh  Quang 
(2007). ʺĐặc điểm kháng ARV của bệnh nhân AIDS thất bại 
điều trị với HAART tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đớiʺ. Hội thảo 
khoa học tháng 10 bệnh viện Bệnh Nhiệt đới năm 2007. 
7. WHO  (2010).  ʺAntiretroviral  therapy  for  HIV  infection  in 
adults and adolescent”. 
8. Võ Xuân Huy (2011). Nghiên cứu kết quả điều trị thuốc ARV bậc 
1 có khảo sát tính kháng thuốc kiểu gien trên bệnh nhân AIDS tại 
bệnh viện Bệnh Nhiệt  đới, Luận  án  tốt  nghiệp  bác  sĩ  chuyên 
khoa cấp II chuyên ngành Nhiễm, Đại học Y Dược TP Hồ Chí 
Minh. 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014  
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 392_9852.pdf 392_9852.pdf