Kết quảnghiên cứu bước đầu về nhện gié hại lúa

Nhện gié (Steneotarsonemus spinki) Smiley thuộc họnhện trắng

Steneotarsonemidae, bộve bét Acarina, lớp nhện Arachinidae, là đối tượng gây

hại nguy hiểm trên lúa (có thểlàm giảm đến 70-80% năng suất). ỞViệt Nam,

trong vài năm gần đây, nhện gié là loài gây hại đáng chú ý nhất trong 9 loài nhện

hại trên lúa. Đây là loài có kích thước cơ thểnhỏ, không thểnhìn thấy bằng mắt

thường, do đó việc phát hiện và phòng trừkịp thời đối với nhện gié còn rất hạn

chế.

pdf14 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Kết quảnghiên cứu bước đầu về nhện gié hại lúa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết quả nghiên cứu bước đầu về nhện gié hại lúa Nhện gié (Steneotarsonemus spinki) Smiley thuộc họ nhện trắng Steneotarsonemidae, bộ ve bét Acarina, lớp nhện Arachinidae, là đối tượng gây hại nguy hiểm trên lúa (có thể làm giảm đến 70-80% năng suất). Ở Việt Nam, trong vài năm gần đây, nhện gié là loài gây hại đáng chú ý nhất trong 9 loài nhện hại trên lúa. Đây là loài có kích thước cơ thể nhỏ, không thể nhìn thấy bằng mắt thường, do đó việc phát hiện và phòng trừ kịp thời đối với nhện gié còn rất hạn chế. Ở Nghệ An, nhện gié được phát hiện vào năm 2008. Đến năm 2009, nhện gié đã phát sinh gây hại nặng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất lúa tại nhiều vùng thuộc các huyện Đô Lương, Yên Thành, Nghi Lộc... Một trong những nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại trên là do chưa phát hiện kịp thời sự gây hại của nhện và chưa xác định được thời điểm cũng như biện pháp phòng trừ hiệu quả. Hiện nay, nhện gié hại lúa đang là đối tượng dịch hại có nhiều nguy cơ tiềm ẩn phát sinh thành dịch trên diện rộng, gây thiệt hại lớn đến năng suất lúa tại Nghệ An. Do là loài mới gây hại, kích thước quá nhỏ và tác hại ngày một tăng, nên tại rất nhiều nơi, các kỹ thuật viên bảo vệ thực vật và cán bộ khuyến nông chưa nhận biết được triệu chứng gây hại của nhện gié, vẫn thường nhầm lẫn triệu chứng gây hại của chúng với các loại bệnh do vi sinh vật gây nên, thường được gọi chung một tên là "bệnh đen lem lép hạt" và khuyến cáo sử dụng thuốc trừ sâu bệnh để diệt trừ, gây tốn kém, lãng phí và ảnh hưởng xấu đến môi trường sống. Với kết quả nghiên cứu bước đầu, bài viết này xin thông tin một số vấn đề về nhện gié, đặc điểm phát sinh gây hại và cách phòng trừ. 1. Đặc điểm hình thái, sinh vật học của nhện gié 1.1. Đặc điểm hình thái - Trứng có màu trắng trong, hình trái xoan, đẻ rải rác từng quả hoặc thường dính lại với nhau thành từng đám 5-10 quả. - Nhện non di động và nhện non không di động có màu trắng đục với 3 đôi chân. - Trưởng thành có màu trắng đục hơi vàng, có 4 đôi chân, rất khó quan sát bằng mắt thường. Kích thước cơ thể nhện cũng có thể là cơ sở phân biệt giới tính và tuổi nhện. Con cái trưởng thành có chiều dài bề rộng cơ thể tương ứng là 274m và 108m. Con đực có kích thước chiều dài và bề rộng cơ thể tương ứng là 217m và 121m. Các đặc điểm cấu tạo hình thái đặc trưng cho họ Tarsonemidae. Điểm dễ phân biệt giữa con đực và con cái là ở đôi chân thứ 4: Đôi chân thứ 4 con đực phình to phía trong tạo thành đôi kìm hỗ trợ cho việc vận chuyển con cái và giao phối; Đôi chân thứ 4 của con cái tiêu giảm nhỏ bé, có dạng vuốt dài. 1.2. Đặc điểm sinh học Nhện gié có 3 pha phát dục: Trứng - Nhện non (di động, không di động) - Trưởng thành. Nhện gié có sức tăng quần thể rất cao, có thể tăng gấp đôi số lượng trong thời gian khoảng 5 ngày. Vòng đời là ngắn đến rất ngắn từ 4-7 ngày, tùy theo nhiệt độ. Sức đẻ trứng của nhện gié cao: Trung bình 50 trứng/con cái; Thời gian đẻ tập trung trong 7 ngày đầu. Trưởng thành có thể sống được 15-30 ngày. Trong một quần thể nhện thường thấy tỷ lệ 3 con cái: 1 con đực, khi điều kiện sống thuận lợi tỷ lệ này là 8 cái: 1 đực. Trưởng thành cái loài S.spinki có khả năng sinh sản đơn tính, con cái không qua giao phối vẫn có thể đẻ trứng nhưng tỷ lệ nở ra con đực cao hơn so với trứng đã qua giao phối. Bảng 1: Thời gian phát dục (ngày) của từng pha và vòng đời nhện gié (ở 25oC ± 1oC và 30oC ± 1oC) Đợt nuôi 1 (25oC ± 1oC) Đợt nuôi 1 (30oC ± 1oC) Chỉ tiêu Pha phát dục Tối thiểu Tối đa Trung bình Tối thiểu Tối đa Trung bình Trứng 2,5 3,5 3,13 ± 0,47 1,5 2,5 2,09 ± 0,31 Nhện non di động 1,5 2,0 1,72 ± 0,20 1,0 2,0 1,37 ± 0,20 Nhện non không di động 1,5 2,5 2,16 ± 0,34 1,0 1,5 1,69 ± 0,19 Trưởng thành cái trước đẻ trứng 2,0 2,5 2,29 ± 0,38 1,0 2,0 1,79 ± 0,29 Vòng đời 7,5 10,5 9,30 ± 1,45 4,5 8,0 6,52 ± 0,99 Thời gian sống của trư- ởng thành cái 8,5 17,0 11,33 ± 2,39 7,5 13,0 10,84 ± 2,07 Đời 14,0 25,0 19,26 ± 3,46 11,0 19,0 15,57 ± 2,77 Vòng đời của nhện gié nghiên cứu tại các ngưỡng nhiệt độ 30oC, 25oC tương ứng là 6,52 và 9,3 ngày. Trong điều kiện nhiệt độ môi trường 25oC, thời gian sống của trưởng thành cái từ 8,5-17 ngày; trung bình 11,33 ngày. Ở 30oC, thời gian sống của trưởng thành cái ngắn hơn giao động 7,5-13 ngày; trung bình 10,84 ngày (Bảng 1). Thời gian sống của trưởng thành phụ thuộc điều kiện nhiệt độ và cây ký chủ, cụ thể là các giống lúa khác nhau, mức độ gây hại khác nhau. Nhện gié có khả năng chịu đựng tốt với các điều kiện nhiệt độ bất lợi, khi nhiệt độ cao ở mức 37oC sau 36 giờ, tỷ lệ nhện sống vẫn đạt 100% và nhện chết hết sau 108 giờ; ở nhiệt độ 39oC, nhện có thể tồn tại tới 72 giờ; ở 41oC, nhện có thể sống tới 48 giờ. Đối với nhiệt độ thấp, nhện gié cũng có khả năng chịu đựng tốt ở -2 tới -5oC, sau 120 giờ đa phần nhện vẫn sống; ở nhiệt độ -8oC thì 41,1% nhện có thể chịu đựng sau 48 giờ và chỉ chết hết sau 72 giờ (Xu et al., 2002). Khi không có thức ăn, tất cả các pha nhện gié đều có khả năng tồn tại tốt trong nước. Trưởng thành nhện gié có khả năng tồn tại trong nước lâu nhất là 23 ngày (trưởng thành cái sống dài hơn trưởng thành đực), nhện non 25 ngày, trứng và nhện non không di động đều có khả năng nở (tỷ lệ nở bình quân 94,33%) và lột xác trong môi trường nước (Xu et al., 2002). 2. Triệu chứng gây hại của nhện gié * Ở giai đoạn mạ Ở giai đoạn mạ, nhện thường không hại ở gân lá mà chủ yếu hại ở bẹ lá. Đối với những bẹ lá con nhỏ, khoang mô nhỏ, nhện không đục vào các khoang mô mà chích hút nhựa cây ngay ở ngoài bẹ lá, phần tiếp xúc giữa các bẹ lá với nhau. Vết hại ban đầu là các chấm nhỏ màu trắng vàng, về sau các vết hại tập trung thành đám màu vàng nâu đến nâu đen. Đặc biệt, những dảnh mạ bị nhện gié hại nặng có hiện tượng lùn thấp hơn, đẻ nhánh sớm hơn so với những dảnh mạ khác. * Ở giai đoạn lúa cấy - Trên thân Thân cây lúa bị nhện gié chích hút ban đầu là những đốm nhỏ màu vàng nhạt về sau kéo dài hình chữ nhật và dần biến từ màu vàng nhạt sang nâu đen. Các vết nâu đen hình chữ nhật đứt quãng hoặc không đứt quãng xếp sít nhau và dần dần xuất hiện khắp trên thân khi bị hại nặng. - Trên bẹ lá Đối với những bẹ lá sát gốc, là những bẹ to, xốp, có nhiều khoang mô lớn thì nhện gié thường đục vào bên trong bẹ gây hại. Vết hại ban đầu là các chấm nhỏ có thể hình chữ nhật hoặc không, màu trắng vàng đến vàng nhạt, về sau các vết hại tập trung thành từng đám chuyển màu nâu nhạt, nâu đậm đến thâm đen. Nếu bị nặng toàn bộ bẹ lá, thân cây có màu nâu đen đậm mà nhiều nơi bà con nông dân gọi là "thân mía tím". - Trên gân lá Vết hại trên gân lá ban đầu là các chấm nhỏ màu trắng vàng, về sau vết hại lan rộng thành các vệt sọc chạy dọc gân lá, vết bệnh biến đổi từ nâu vàng sang nâu đậm rồi nâu đen. - Trên bông lúa khi trỗ Bông lúa bị nhện gié hại thường thấy hiện tượng bông lúa không trỗ thoát do nhện gié chích hút và gây hại ngay trước khi trỗ, số hạt lép hoàn toàn trên bông rất lớn, bông lúa hoặc thân đòng bị cong queo. Nếu bông lúa trỗ thoát thì nhện vẫn tấn công hạt lúa ngay trong khi trỗ và sau khi trỗ. Trên bông lúa nhện thường tấn công theo chiều từ cuống bông đến đuôi bông khiến bông không cong bình thường mà có chiều đứng thẳng. - Trên gié lúa Gié lúa bị nhện hại thường cong queo, phía dưới cuống gié cong, không thẳng như bình thường, cuống gié, cuống hạt, hạt trên gié cũng bị biến màu từ vàng nhạt sang vàng nâu rồi nâu đen. Góc của điểm cuối bông và thân càng to biểu hiện mức độ gây hại càng lớn. Gié lúa bị vi khuẩn khác không có hiện tượng như trên. - Trên hạt lúa Hạt lúa bị nhện gié hại thường có hiện tượng biến dạng cong queo, lép hoàn toàn, lửng hoặc bình thường. Vỏ trấu bị biến màu hoàn toàn hoặc lốm đốm nâu đến nâu đen. Hạt lép hoàn toàn có đài hoa, nhị, nhụy bị biến màu, khô teo và nâu đen. * Sự khác biệt về triệu chứng giữa nhện gié và một số bệnh do nấm - Trên bông lúa và hạt lúa Một số loại bệnh do nấm như bệnh thối bẹ lá, bệnh khô vằn cũng gây hiện tượng bông lúa không trỗ thoát, tỷ lệ các hạt lép hoàn toàn trên bông rất lớn. Tuy nhiên, hiện tượng lép hoàn toàn do nấm thường làm các hạt lúa không bị biến dạng, màu vỏ trấu đồng màu nâu, đen hoặc xám, trên bề mặt hạt lúa có các bào tử, hạch nấm rất dễ nhận biết. Khi bị bệnh do nấm hại, bông lúa không có hiện tượng cong queo như khi bị nhện gié hại, màu sắc hạt lúa trên bông thường đồng màu, ít có hiện tượng màu nâu hoặc đen lốm đốm. Nếu có hiện tượng màu sắc hạt lúa lốm đốm thì trên vết lốm đốm có ranh giới giữa mô bệnh và mô khoẻ. Nếu điều kiện thời tiết ẩm ướt sẽ thấy các sợi nấm trắng mọc lên trên bề mặt vết bệnh. Những hạt lúa bị lép hoàn toàn do nhện gié thường là do nhện chích hút làm nhị, nhụy bị khô teo lại. Những hạt lúa bị lép hoàn toàn do nấm khi bóc tách vỏ trấu không có hiện tượng nhị, nhụy hoa bị teo mà vẫn giữ nguyên hình dạng bình thường. 3. Quy luật phát sinh gây hại của nhện gié Nhện gié phát triển mạnh khi nhiệt độ 28-300C, độ ẩm cao 96%. Nhiệt độ thấp hơn, chúng phát triển chậm hơn. Nhện gié có khả năng sống sót ở nhiệt độ thấp, tuy nhiên khả năng này không giống nhau ở các pha. Trong năm, nhện gié gây hại nặng trên lúa hè thu và lúa mùa sớm, ở những chân ruộng cao thiếu nước. Thực chất lúa vụ hè thu - mùa bị hại nặng là do nguồn tích lũy trên đồng ruộng từ vụ trước và nhiệt độ cao thuận lợi cho sự phát triển của chúng. Nhện gié bắt đầu phát sinh gây hại mạnh trên đồng ruộng từ giai đoạn cuối đẻ nhánh, tăng nhanh mật độ ở giai đoạn lúa làm đòng đến trỗ bông phơi màu. Trong giai đoạn lúa đẻ nhánh đến đứng cái, nhện gié hại ở gân lá, tập trung ở lá thứ 4 và 5; giai đoạn làm đòng đến trỗ, nhện tiếp tục gây hại ở các lá thứ 3, 4 và 5 và chuyển lên gây hại ở bẹ, bông và hạt (Bảng 2). Bảng 2: Mật độ, tỷ lệ hại và chỉ số hại của nhện gié qua các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa Ruộng điều tra Ngày điều tra Giai đoạn sinh trưởng Mật độ nhện (con/dảnh) Tỷ lệ hại (%) Chỉ số hại (%) 06/08/2010 Cuối đẻ nhánh 0,71 15,00 1,66 13/08/2010 Đứng cái 4,31 23,00 2,55 20/08/2010 Làm đòng 33,51 67,00 7,44 27/08/2010 Trỗ bông 56,96 76,00 8,88 07/09/2010 Phơi màu 103,47 79,00 9,33 14/09/2010 Ngậm sữa 34,87 80,00 10,22 Nhện gié có khả năng sống với mật độ cao trên lúa chét ở cả vụ xuân và vụ mùa. Mật độ nhện gié cao trên giống lúa nhiễm nhện và thấp trên giống ít nhiễm và kháng nhện gié. Nhện gié có thể lan truyền nhờ hạt giống, gió, nước, côn trùng, chuột, công cụ sản xuất nông nghiệp, tàn dư thực vật từ vụ trước qua vụ sau... Nhện gié có khả năng lây lan rất mạnh qua vết thương cơ học. Sau 10 ngày tạo vết thương nhân tạo, tỷ lệ hại là 100% tại các vết thương. Nhện gié có khả năng lây lan qua dòng nước, lây mạnh ở chỗ có dòng chảy nhưng lại nhiễm mạnh nhất ở các ruộng lúa khô và thường xuyên bị hạn. Nhện gié có khả năng lây lan qua gió, tốc độ lan truyền phụ thuộc khoảng cách từ ruộng có nhện đến ruộng không có nhện. Trên các chân ruộng thì chân đất trũng bị hại nhẹ hơn chân vàn cao thiếu nước. Ruộng bón nhiều đạm bị hại nặng hơn ruộng bón ít đạm. Ruộng cấy dày thường bị hại nặng. Các loài nhện trong họ Phytoseiidae, bộ ve bét Acarina có khả năng khống chế được nhện gié S. Spinki. Ở châu Á có hai loài thiên địch quan trọng là Amblyseius taiwanicus và Lasioseus parberiesei Bhattcharya (Lo & Ho, 1979). Nhện bắt mồi có thể tấn công và khống chế nhện hại hiệu quả. Các chế phẩm sinh học như Hirsutela nodulosa, Bacillus thuringiensis, Beauveria bassiana, Verticilin lecanii và Metazhizium anissopliae có hiệu quả cao trong phòng trừ nhện gié trên đồng ruộng. 4. Kết quả khảo sát một số loại thuốc hóa học phòng trừ nhện gié Bố trí các thí nghiệm đồng ruộng, khảo nghiệm một số loại thuốc hóa học phun trừ nhện gié trong vụ hè thu 2010, kết quả cho thấy trong 4 loại thuốc khảo nghiệm, thuốc Kinalux 25 EC phun ở liều lượng 0,2 lít/ha có hiệu quả cao nhất, tiếp đến là thuốc Angun 5WDG liều lượng 1,5 kg/ha, thuốc Comite 73 EC liều lượng 0,55 lít/ha có hiệu quả trừ nhện gié thấp nhất (Bảng 3). Bảng 3: Hiệu lực phòng trừ nhện gié của một số thuốc hóa học Hiệu lực (%) Tên thuốc Liều lượng (lít,kg/ha) 3 NSP 7 NSP 14 NSP Abatimex 3.6 EC 0,15 61,91 63,80 48,398 Angun 5 WDG 0,20 77,92 82,15 65,26 Comite 73 EC 0,55 28,43 35,82 15,51 Kinalux 25 EC 1,5 79,89 86,09 72,68 Ghi chú: NSP: Ngày sau phun Tiến hành các thí nghiệm theo các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa trên đồng ruộng để xác định thời điểm phun thuốc trừ nhện gié đạt hiệu quả cao về kỹ thuật và mang lại hiệu quả kinh tế cho kết quả trình bày ở bảng 4 như sau: Bảng 4: Tỷ lệ và chỉ số hại (%) của nhện gié trên các công thức phun thuốc ở các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa Tỷ lệ và chỉ số hại của nhện gié (%) Trước phun 3 NSP 7 NSP 14 NSP Trước thu hoạch Giai đoạn sinh trưởn g Côn g thức TL H (%) CS H (%) TL H (%) CS H (%) TL H (%) CS H (%) TL H (%) CS H (%) TL H (%) CS H (%) Phun 1 0,1 2 0,2 2 0,2 3 0,3 64 22,3 Cuối đẻ ĐC 2 0,2 2 0,2 3 0,3 7 0,8 93 47,9 Làm Phun 9 1,0 11 1,2 14 1,6 16 1,8 36 8,9 đòng ĐC 8 0,8 11 1,2 17 1,9 30 3,0 93 47,9 Phun 32 3,6 35 3,9 37 4,1 42 4,7 75 24,1 Bắt đầu trỗ ĐC 29 3,2 35 3,9 45 5,0 61 6,8 93 47,9 Phun 51 5,7 58 6,2 68 14,0 85 38,7 91 40,6 Trỗ xong ĐC 57 6,3 64 7,1 73 15,0 90 46,7 93 47,9 Ghi chú: TLH: Tỷ lệ hại; CSH: Chỉ số hại; NSP: Ngày sau phun; ĐC: Đối chứng; Thuốc sử dụng là thuốc Kinalux 25 EC liều lượng 1,5 lít/ha Kết quả bảng 4 cho thấy: Phun thuốc Kinalux 25 EC một lần vào giai đoạn lúa làm đòng có hiệu quả trừ nhện gié cao nhất; Phun ở giai đoạn cuối đẻ nhánh và khi lúa bắt đầu trỗ (trỗ 5-7%) hiệu quả tương đương nhau; Phun khi lúa trỗ thoát (trỗ xong) không có ý nghĩa trừ nhện gié. 5. Kết luận - Nhện gié là loài dịch hại nguy hiểm cho các vùng trồng lúa ở nước ta. Sự phát sinh gây hại của nhện gié liên quan chặt chẽ đến kỹ thuật canh tác và mùa vụ. Trong vụ xuân, nhện gié gây hại nhẹ hơn so với vụ hè thu - mùa. Các giống lúa có bản lá to, gieo cấy dày, bón nhiều đạm bị nhện gié hại nặng. Trên những chân đất cao, vàn và gieo cấy gặp điều kiện khô hạn, nhện càng gây hại nặng. - Nhện gié bắt đầu phát sinh gây hại mạnh trên đồng ruộng từ giai đoạn cuối đẻ nhánh, tăng nhanh mật độ ở giai đoạn lúa làm đòng đến trỗ bông phơi màu. Giai đoạn lúa đẻ nhánh đến đứng cái, nhện gié hại ở gân lá, tập trung ở lá thứ 4 và 5; Giai đoạn làm đòng đến trỗ, nhện tiếp tục gây hại ở các lá thứ 3, 4 và 5 và chuyển lên gây hại ở bẹ, bông và hạt. - Nhện gié trải qua 4 pha phát dục: trứng, nhện non di động, nhện non không di động và nhện trưởng thành. Trong điều kiện nhiệt độ từ 25-30oC, khi nhiệt độ càng cao thì thời gian phát dục của các pha, vòng đời và thời gian đẻ trứng của nhện càng ngắn, nhưng số trứng đẻ của trưởng thành cái lại tăng. Nhện gié có vòng đời ngắn, sức tăng quần thể rất lớn, triệu chứng gây hại của nhện rất khó phân biệt với một số bệnh hại khác. - Thuốc Kinalux 25 EC và thuốc Angun 5 WDG có hiệu quả cao trong phun trừ nhện gié hại lúa. - Phun thuốc ở giai đoạn lúa làm đòng đạt hiệu quả cao nhất. Ở những vùng hàng vụ, hàng năm, nhện gié gây hại nặng có thể phun 2 lần: lần 1 giai đoạn lúa cuối đẻ nhánh; lần 2 giai đoạn lúa bắt đầu trỗ./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnong_nghiep_17__8045.pdf
Tài liệu liên quan