Mục tiêu: Khảo sát sự hiện diện và đặc điểm của ống hậu hàm trên hình ảnh CBCT ở xương hàm dưới
người Việt.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 91 hình ảnh CBCT được lưu trữ tại bộ môn Tia X, Khoa
Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Ở vùng hậu hàm ghi nhận sự hiện diện của ống hậu
hàm, phân loại ống hậu hàm theo phân loại của Von Arx (2011), đo đạc các thông số khoảng cách A, chiều cao B,
đường kính C, đường kính F1, đường kính F2 và khoảng cách F2.
Kết quả: Trong số 91 hình ảnh CBCT khảo sát ghi nhận tỉ lệ cá thể có ống đôi ống răng dưới là 46,2%, tỉ lệ
cá thể có ống hậu hàm là 16,5%. Nghiên cứu ghi nhận ống hậu hàm loại B1 hiện diện nhiều nhất 44,4%, số ống
hậu hàm loại A1, B2, C lần lượt là 27,8%, 22,2%, 5,6% và không ghi nhận có ống hậu hàm loại A2. Khoảng
cách A bên phải dài hơn bên trái có ý nghĩa thống kê. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự phân bố
ống hậu hàm theo giới và vị trí bên hàm.
              
            Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 366
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM ỐNG HẬU HÀM TRÊN HÌNH ẢNH  
CORE BEAM CT CỦA XƯƠNG HÀM DƯỚI NGƯỜI VIỆT 
Nguyễn Thị Thùy Trang*, Lê Đức Lánh*, Phạm Thị Hương Loan* 
TÓM TẮT 
Mục  tiêu: Khảo sát sự hiện diện và đặc điểm của ống hậu hàm trên hình ảnh CBCT ở xương hàm dưới 
người Việt. 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 91 hình ảnh CBCT được lưu trữ tại bộ môn Tia X, Khoa 
Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Ở vùng hậu hàm ghi nhận sự hiện diện của ống hậu 
hàm, phân loại ống hậu hàm theo phân loại của Von Arx (2011), đo đạc các thông số khoảng cách A, chiều cao B, 
đường kính C, đường kính F1, đường kính F2 và khoảng cách F2. 
Kết quả: Trong số 91 hình ảnh CBCT khảo sát ghi nhận tỉ lệ cá thể có ống đôi ống răng dưới là 46,2%, tỉ lệ 
cá thể có ống hậu hàm là 16,5%. Nghiên cứu ghi nhận ống hậu hàm loại B1 hiện diện nhiều nhất 44,4%, số ống 
hậu hàm loại A1, B2, C lần lượt là 27,8%, 22,2%, 5,6% và không ghi nhận có ống hậu hàm loại A2. Khoảng 
cách A bên phải dài hơn bên trái có ý nghĩa thống kê. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự phân bố 
ống hậu hàm theo giới và vị trí bên hàm. 
Kết luận: Nghiên cứu bước đầu ghi nhận sự hiện diện và đặc điểm đường đi ống hậu hàm ở xương hàm 
dưới người Việt. Sự hiện diện của ống hậu hàm có ý nghĩa quan trọng giúp cho các nhà lâm sàng cần nhớ đến 
cấu trúc này khi tiến hành can thiệp ở vùng hậu hàm và góp phần làm phong phú thêm đặc điểm hình thái của 
xương hàm dưới người Việt. 
Từ khóa: ống hậu hàm, ống đôi ống răng dưới. 
ABSTRACT 
RETROMOLAR CANALS AS OBSERVED ON CONE BEAM COMPUTED TOMOGRAPHY 
Nguyen Thi Thuy Trang, Le Duc Lanh, Pham Thi Huong Loan  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 366 ‐ 370 
Objectives: To evaluate the presence and characteristics of the mandibular retromolar canal in Vietnamese 
by using CBCT images. 
Methods:  A  cross  –  sectional  study  was  conducted  on  91  CBCT  images  were  stored  in  the  X‐ray 
Department, the Faculty Odonto – Stomatology, University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City. In 
the  retromolar  fossa, detected  the presence  of  retromolar  canal,  classified  them  according  to Von Arx  (2011), 
measurement of distance A, height B, diameter C, the diameter F1, diameter F2 and distance F2. 
Results: On 91 CBCT images, 42 patients were detected bifid mandibular canal (46.2%) and 15 patients 
were found retromolar canal (16.5 %). The present study demontrated retromolar canal type B1 is the most with 
44.4%, the retromolar type A1, B2, C are 27.8%, 22.2%, 5.6% respectively and not identified type A2. Distance 
A in right side is longer than in left side with statistical significance. The existence of a retromolar canal was not 
statistically related to gender or side.  
 Conclusions: Initially the present study evaluated the presence and characteristics course of mandibular 
retromolar canal  in Vietnamese. The presence of retromolar canal  is very  important  for clinicians to remember 
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP HCM  
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Thùy Trang ĐT: 0972150008 Email: 
[email protected]
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt  367
this  structure when  performing  surgery  in  the  retromolar  area  and  contribute  to  enrich  the morphological 
characteristics of Vietnamese. 
Key words: retromolar canal, bifid mandibular canal. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ống răng dưới (ORD)  là cấu  trúc giải phẫu 
kéo  dài  từ  lỗ  hàm  dưới  đến  lỗ  cằm  chứa  dây 
thần  kinh  xương  ổ  dưới,  động mạch  và  tĩnh 
mạch. Dây  thần kinh xương  ổ dưới có ý nghĩa 
lâm sàng vì dễ bị tổn thương do gãy xương hàm 
dưới, phẫu thuật răng khôn lệch, phẫu thuật đặt 
Implant, phẫu thuật chỉnh hàm, phẫu thuật điều 
trị các bệnh lý, phẫu thuật ghép (vị trí lấy mảnh 
ghép, vị trí ghép) và phẫu thuật nội nha. Vì vậy, 
xác  định vị  trí  ống  răng dưới giữ vai  trò quan 
trọng trong việc lập kế hoạch điều trị phẫu thuật 
vùng  răng sau hàm dưới. Những  thay đổi giải 
phẫu trong đường đi của ống răng dưới như sự 
hiện diện ống đôi ORD, vòng ngoặt trước không 
phải  là  hiếm(1),  những  đặc  điểm  này  giúp  các 
nhà  lâm sàng  luôn nhớ rằng có các thay đổi về 
giải phẫu của ORD. Ống  đôi ORD  được gọi  là 
ống hậu hàm khi ống hướng về phía xa răng cối 
lớn thứ ba, phù hợp với phân loại IV trong phân 
loại của Nortje (1977), ống hậu hàm  là một ống 
phụ phát  sinh  từ gối hậu nha và gia nhập với 
ống chính ở vùng hậu hàm. Những biến chứng 
như chấn  thương  thần kinh, dị cảm, chảy máu 
có thể xảy ra khi các nhà lâm sàng không nhận 
ra được sự hiện diện của cấu trúc giải phẫu này 
và các ứng dụng của nó. Trong phẫu  thuật cắt 
xương hàm dưới thì phẫu thuật sẽ trở nên phức 
tạp hơn khi có thêm bó mạch thần kinh thứ hai. 
Hơn nữa, trong trường hợp chấn thương xương 
hàm dưới, tất cả xương hàm dưới gãy nên được 
nắn chỉnh và cố định để tránh bị chồng xương. 
Sự  nắn  chỉnh  sẽ  trở  nên  khó  khăn  khi  có  bó 
mạch  thần  kinh  thứ  hai  nằm  trên mặt  phẳng 
khác. 
Hình ảnh cắt lớp điện toán với chùm tia hình 
chóp  nón  (CBCT)  được  sử  dụng  rất  hiệu  quả 
trong  nha  khoa  giúp  nhìn  thấy  hình  ảnh  ba 
chiều của cấu trúc sọ mặt với độ phân giải cao, 
kích  thước chính xác,  thời gian  tạo  ảnh nhanh, 
độ nhiễm xạ thấp và kinh tế. Như vậy, liệu trên 
xương hàm dưới người Việt có sự hiện diện của 
ống  hậu  hàm  hay  không?  Để  trả  lời  câu  hỏi 
nghiên  cứu  trên,  chúng  tôi  tiến  hành  khảo  sát 
“Sự hiện diện  của  ống hậu hàm  trên hình  ảnh 
CBCT của xương hàm dưới người Việt” với các 
mục tiêu sau: 
‐ Xác định  tỉ  lệ ống hậu hàm  trên hình ảnh 
CBCT của xương hàm dưới người Việt theo giới, 
giữa bên phải và bên trái.  
‐ Mô  tả  đặc  điểm  ống  hậu  hàm  và  tương 
quan ống hậu hàm với các mốc giải phẫu. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Mẫu  thuận  tiện  gồm  hình  ảnh CBCT  hàm 
dưới thỏa tiêu chí hàm dưới còn răng cối lớn thứ 
hai hoặc răng cối  lớn  thứ ba, không có bệnh  lý 
hay có chỉ định phẫu thuật xương hàm dưới và 
chưa  từng  trải qua bất kì phẫu  thuật hàm mặt 
nào.  Các  hình  ảnh  CBCT  được  lưu  trữ  tại  bộ 
môn Tia X,  lấy  từ các bệnh nhân đến khám và 
điều  trị  tại  Khoa  Răng  Hàm Mặt,  Đại  học  Y 
Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 11 năm 
2011 đến tháng 5 năm 2013. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thu thập dữ liệu 
Xác  định  ống  răng  dưới:  là một  ống  nằm 
trong xương hàm dưới bắt đầu từ lỗ hàm dưới ở 
cành  đứng  xương  hàm  dưới,  ống  chạy  xiên 
xuống dưới và ra trước trong cành đứng, và sau 
đó ra trước theo cành ngang đến lỗ cằm. 
Ở vùng hậu hàm ghi nhận(2): 
‐ Sự hiện diện ống đôi ORD:  trên đường đi 
của ống răng dưới, ghi nhận sự phân nhánh từ 
ống chính. 
‐ Sự hiện diện  của  ống hậu hàm: Một dải 
thấu  quang do  sự  phân  nhánh  của  ống  răng 
dưới nằm trong vùng hậu hàm, đó là ống hậu 
hàm. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 368
‐ Sự hiện diện của lỗ hậu hàm: ống hậu hàm 
chạy  theo hướng sau  trên và mở  ra một  lỗ mở 
trên xương vùng hậu hàm. 
Phân  loại ống hậu hàm dựa  theo phân  loại 
của Von Arx (2011)(9). 
Đo đạc các thông số về mối tương quan ống 
hậu hàm với các mốc giải phẫu theo nghiên cứu 
của Von Arx (2011)(9) gồm: 
Khoảng  cách  ngang  từ  ống  hậu  hàm  đến 
răng cối lớn thứ hai (Hình 1). 
Hình 1: Sơ đồ minh họa các kích thước của ống hậu 
hàm. 
(1) ORD,  (2) ống hậu hàm  (A) khoảng cách 
ngang,  (B)  chiều  cao  ống hậu hàm,  (C)  đường 
kính ống. 
A: khoảng cách ngang  từ điểm giữa  của  lỗ 
hậu hàm đến đường nối men xê măng phía xa 
của răng cối lớn thứ hai. 
Chiều cao ống hậu hàm (Hình 1). 
B:  khoảng  cách  đứng  (chiều  cao)  từ  điểm 
giữa của lỗ hậu hàm đến giới hạn phía trên của 
ống răng dưới. 
Từ điểm giữa lỗ hậu hàm đã xác định ở trên, 
hạ đường vuông góc lên giới hạn phía trên của 
ống  răng  dưới.  Đo  khoảng  cách  này  ta  được 
chiều cao B.  
Đường kính ống hậu hàm (Hình 1). 
C: đường kính ống hậu hàm được đo tại vị 
trí dưới trung tâm lỗ mở 3 mm.  
Đường  kính  F1:  đường  kính  của  ống  hậu 
hàm  khi  phân  nhánh  từ  ống  răng  dưới  (phân 
nhánh cấp 1) (Hình 2). 
Đường  kính  F2:  đối  với  các  ống  hậu  hàm 
phân loại A2 và B2, ghi nhận thêm đường kính 
lớn nhất của ống hậu hàm khi phân nhánh cấp 2 
(Hình 2).  
Khoảng  cách  F2:  từ  điểm  giữa  của  phân 
nhánh  cấp  2, hạ  đường vuông góc với bề mặt 
xương  hàm  dưới  cùng  hậu  hàm,  ghi  nhận 
khoảng cách này (Hình 3). 
Hình 2:. Đo đường kính F1 trên hình ảnh CBCT. 
Hình 3: Đường kính F2 và khoảng cách F2 trên hình 
ảnh CBCT 
Thực hiện khảo sát đặc điểm ống hậu hàm ở 
mỗi bên hàm và cả hai bên (nếu có). 
Sử dụng phép kiểm χ2, phần mềm SPSS 21 
để so sánh sự phân bố cá  thể có  ống hậu hàm 
theo nam – nữ, bên phải – bên  trái, dùng phép 
kiểm  t  để  so  sánh  các  thông  số  khoảng  cách, 
đường kính,  chiều  cao  theo giới và bên phải – 
bên trái. 
KẾT QUẢ 
Khảo sát 91 hàm dưới ghi nhận được có 42 
cá thể ống đôi ORD (chiếm 46,2%). Trong đó có 
15/91 cá  thể có ống hậu hàm chiếm  tỉ  lệ 16,5%. 
Trong  số  các  cá  thể  có  ống  hậu  hàm,  có  6/15 
(40%) cá thể là nữ và 9/15 (60%) cá thể là nam. 7 
ĐƯỜNG	KÍNH	F1	
KHOẢNG	CÁCH	F2	
ĐƯỜNG	KÍNH	F2	
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt  369
(46,7%)  cá  thể  chỉ  có  ống hậu hàm bên phải, 5 
(33,3%) cá thể chỉ có ống hậu hàm bên trái và 3 
(20%) cá thể có cả hai bên hàm. 
Trong  tổng  số 18  ống hậu hàm  cho  thấy  ở 
nam, có 7 ống hậu hàm ở bên phải (63,6%) và 4 
ống hậu hàm ở bên trái (36,4%). Ở nữ có 3 ống 
hậu hàm hiện diện  bên phải  (42,9%)  và  4  ống 
hậu hàm hiện diện bên trái (57,1%), không có sự 
khác biệt  có ý nghĩa  thống kê  sự phân bố  ống 
hậu hàm theo giới và vị trí bên hàm, p>0,05. Ống 
hậu hàm  loại B1 hiện diện nhiều nhất 8/18 ống 
(44,4%), ống hậu hàm loại A1, B2, C lần lượt là 5 
ống  (27,8%),  4  ống  (22,2%),  1  ống  (5,6%)  và 
không  có  ống hậu hàm nào  trong mẫu nghiên 
cứu loại A2 (0%). 
Bảng:. Giá trị trung bình các số đo. 
 Khoảng cách A Chiều cao B Đường kính C Đường kính F1 Đường kính F2 Khoảng cách F2 
n’ 12 18 18 18 4 4 
Giá trị trung bình 16,42 9,55 0,89 1,78 2,59 5,77 
Độ lệch chuẩn 6,03 1,92 0,35 0,57 1,06 2,04 
 Đơn vị tính: mm 
Khoảng cách trung bình tính từ điểm giữa lỗ 
hậu hàm đến đường nối men – xê măng răng cối 
lớn thứ hai là 16,42 ± 6,03 mm. Chiều cao trung 
bình  ống  hậu  hàm  là  9,55  ±  1,92 mm.  Đường 
kính trung bình ống hậu hàm dưới 3 mm từ  lỗ 
mở  là 0,89 ± 0,35 mm. Đường kính  trung bình 
ống hậu hàm  tại phân nhánh  thứ nhất,  thứ hai 
và khoảng cách từ phân nhánh thứ hai cho đến 
bề mặt xương lần lượt là 1,78 ± 0,57 mm, 2,59 ± 
1,06 mm, 5,77 ± 2,04 mm (Bảng 1). 
BÀN LUẬN 
Trong 91 hình ảnh CBCT được khảo sát, có 
42 cá thể có ống đôi ORD chiếm tỉ lệ 46,2%, phù 
hợp với nghiên cứu Naitoh (2009) ghi nhận tỉ lệ 
ống đôi ORD  thay đổi  từ 15,6 – 65%  trên hình 
ảnh CBCT. Trong số đó chỉ có 15 cá thể có ống 
hậu hàm chiếm tỉ lệ 16,5%, thấp hơn nghiên cứu 
Kawai  (2012)  là 52%  (24/46 xương hàm dưới)(3). 
Trong nghiên cứu mới đây của Patil  (2013) ghi 
nhận  tỷ  lệ khá cao ống hậu hàm 65% khi khảo 
sát  trên  hình  ảnh CBCT(6). Tỷ  lệ  ống  hậu  hàm 
trong các nghiên cứu  trên xương khô và CBCT 
thay  đổi  từ  6,1%  ‐  72%(9). Ossenberg  (1987)  đã 
ghi nhận ở người Mỹ có  tỉ  lệ ống hậu hàm cao 
hơn người Nhật Bản, Ấn Độ và châu Phi và ông 
cũng kết  luận rằng:  tỉ  lệ ống hậu hàm  thay đổi 
tùy chủng tộc(5). Sự khác biệt này có thể do ảnh 
hưởng  của di  truyền  và môi  trường  như dinh 
dưỡng, căng thẳng áp lực(5). 
Nghiên  cứu này  chưa ghi nhận  có  sự khác 
biệt về giới và tần suất xuất hiện ống hậu hàm ở 
bên phải và trái (p>0,05). Kết quả này tương tự 
các  nghiên  cứu  khác(1,5). Nghiên  cứu  cũng  ghi 
nhận  tỉ  lệ  cá  thể  có  ống  hậu  hàm  ở một  bên 
(80%) cao hơn hai bên (20%), phù hợp với đa số 
nghiên  cứu  khác(1,8),  trong  khi  đó,  nghiên  cứu 
của Sagne (1977) lại cho thấy ống hậu hàm hiện 
diện ở cả hai bên hàm với tỉ lệ cao hơn. 
  Trong nghiên  cứu này,  tần  số  xuất  hiện 
ống  hậu  hàm  ở  nam  (9/15  trường  hợp)  nhiều 
hơn ở nữ (6/15 trường hợp) nhưng sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Kết quả này 
tương  tự  Ossenberg  (1987)(5)  và  Pyle  (1999)(7). 
Ngược lại, nghiên cứu của Von Arx (2011) nhận 
thấy xu hướng nữ giới  có  ống hậu hàm nhiều 
hơn  so  với  nam  giới(9).  Tuy  nhiên,  các  nghiên 
cứu  đều  ghi  nhận  sự  khác  biệt  giữa  hai  giới 
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
Trong số 18 ống hậu hàm trên 15 cá  thể  thì 
ống hậu hàm loại B1 (8/18 ống hậu hàm) và A1 
(5/18 ống) chiếm tỉ  lệ cao hơn  lần  lượt  là 44,4% 
và 27,8%. Tỉ lệ này khá phù hợp với nghiên cứu 
của Von Arx (2011) với tỉ lệ ống hậu hàm loại B1 
và A1  lần  lượt  là  9/31  ống  (29%) và  13/31  ống 
(41,9%). Điều này có nghĩa  là các ống hậu hàm 
trong nghiên cứu này chủ yếu  là những nhánh 
đứng (loại A1) hoặc uốn cong (loại B1) tách ra từ 
ORD. Tỉ  lệ  ống  hậu  hàm  loại B2  là  22,2%  cho 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 370
thấy ống hậu hàm không phải chỉ là nhánh đơn 
mà  trên  đường  đi phân nhánh  từ ORD  đến  lỗ 
mở vùng hậu hàm, ống hậu hàm có thể chia tách 
thành những nhánh nhỏ hơn. Kết quả này tương 
tự như nghiên cứu của Patil (2013) 31/129 cá thể 
có  ống hậu hàm  loại A,  110/129  cá  thể  có  ống 
hậu hàm loại B. 
Khi khảo sát đường kính ống hậu hàm  tại 
các vị trí: (a) phân nhánh từ ống răng dưới, (b) 
phân nhánh cấp hai và (c) dưới 3 mm từ trung 
tâm  lỗ mở,  nhận  thấy  đường  kính  ống  hậu 
hàm ngay  tại nơi bắt đầu phân nhánh  từ ống 
răng dưới  (1,78  ±  0,57 mm)  lớn hơn  tại vị  trí 
dưới  3 mm  từ  trung  tâm  lỗ mở  (0,89  ±  0,35 
mm). Nghiên cứu này ghi nhận 4  trường hợp 
có ống hậu hàm loại B2 là những ống hậu hàm 
cong hướng về vùng hậu hàm và mở ra một lỗ 
mở  ở  vùng hậu hàm. Tuy nhiên,  trên  đường 
đi, ống hậu hàm  lại phân ra  thêm một nhánh 
ngang  nữa  (phân  nhánh  cấp  2).  Đường  kính 
ống hậu hàm tại vị trí phân nhánh cấp 2 là lớn 
nhất (2,59 ± 1,06 mm) và khoảng cách từ vị trí 
này đến bề mặt xương vùng hậu hàm là 5,77 ± 
2,04 mm. Đây là đặc điểm cần được lưu ý trên 
lâm sàng bởi ống hậu hàm có đường kính lớn 
như vậy  (2,59 mm) sẽ dễ bị  tổn  thương  trong 
khi can thiệp ở vùng hậu hàm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Carter RB, Keen EN  (1971). “The  intramandibular course of 
the inferior alveolar nerve”. J Anat, 108(3): p433 – 440. 
2. Lizio  G,  Pelliccioni  GA,  Ghighi  G,  Fanelli  A, Marchetti  C 
(2012).  “Radiographic  assessment  of  the  mandibular 
retromolar  canal using  cone‐beam  computed  tomography”. 
Acta Odontol Scand, 71 (3 – 4): p650 – 655. 
3. Kawai T, Asaumi R,  Sato  I, Kumazawa Y, Yosue T  (2012). 
“Observation  of  the  retromolar  foramen  and  canal  of  the 
mandibular:  a CBCT  and macroscopic  study”. Oral Radiol, 
28: p10 – 14. 
4. Narayana K, Nayak UA, Ahmed WN, Bhat JG, Devaiah BA 
(2002).  “The  retromolar  foramen  and  canal  in  south  Indian 
dry mandibles”. Eur J Anat, 6(3): p141 – 146. 
5. Ossenberg  NS  (1987).  “Retromolar  foramen  of  the  human 
mandible”. Am J Phys Anthropol, 72(1): p119 – 129. 
6. Patil  S, Matsuda Y, Nakajima K, Araki K, Okano T  (2013). 
“Retromolar  canals  as  observed  on  cone‐beam  computed 
tomography:  their  incidence,  course,  and  characteristics”. 
Oral and maxillofacial radiology, 115(5): p692 – 699. 
7. Pyle MA, Jasinevicius TR, Lalumandier JA, Kohrs KJ, Sawyer 
DR  (1999).  “Prevalence  and  implications  of  accessory 
retromolar  foramina  in  clinical  dentistry”.  General  Dent, 
47(5): p500 – 503. 
8. Priya Y, Manjunath KY (2005). “Retromolar foramen”. Indian 
J Dent Res, 16(1): p15 – 16. 
9. Von Arx T, Hänni A, Sendi P, Buser D, Bornstein MM (2011). 
“Radiographic study of the mandibular retromolar canal: An 
anatomic structure with clinical importance”. J Endod, 37(12): 
p1630 – 1635. 
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:26/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014