Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát niêm mạc của khí quản trên bệnh nhân mở khí quản sau đặt ống nội khí
quản tại Bệnh Viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, thực nghiệm mô tả trên 67 bệnh nhân mở khí quản sau đặt nội khí
quản tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, từ tháng 01 năm 2012 đến tháng 5 năm 2013
Kết quả: Nguyên nhân mở khí quản là viêm phổi chiếm tỷ lệ cao nhất, kế đến là tai biến mạch máu não và
chấn thương sọ não; nam giới nhiều hơn ở nữ giới; > 60 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất. Thời gian đặt nội khí quản kéo
dài từ 7 đến 14 ngày (58,2%); áp lực bóng chèn > 30 cmH20 chiếm tỷ lệ cao nhất (86,6%). Kết quả giải phẫu
bệnh có các tổn thương như hoại tử niêm mạc khí quản, viêm mạn tính niêm mạc khí quản và hoại tử sụn.Hiện
tượng hoại tử sụn xảy ra trước và nhiều hơn hiện tượng hoại tử niêm mạc trên cùng một nhóm bệnh nhân. Hiện
tượng hoại tử niêm mạc (p = 0,028) và sụn khí quản (p =0,001) chỉ xảy ra ngay tại vị trí bóng chèn ống nội khí
quản.
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 1021 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Khảo sát niêm mạc khí quản ở bệnh nhân mở khí quản sau đặt nội khí quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tình trang bệnh nặng thường xảy ra ở người lớn 
tuổi,  tuổi càng cao khả năng hoại  tử niêm mạc 
khí  quản  càng  cao.  Điều  này  đúng  kết  quả 
nghiên cứu có viêm hoại tử niêm mạc ở tuổi từ 
40‐ 60 là 15,4%, dưới 40 tuổi là 0%. 
Tỷlệ viêm niêm mạc khí quản theo giới  
Kết quả cho thấy có tỷ  lệ hoại  tử niêm mạc 
nam cao nữ 35,0%: 3,7%, có ý nghĩa thống kê với 
p= 0,003. 
Tỷ lệ viêm niêm mạc khí quản theo loại bệnh 
Nhóm bệnh nhân viêm phổi có tỷ lệ hoại tử 
niêm mạc khí quản cao nhất (37,5%), nhóm bệnh 
nhân này cơ bản đã có viêm khí phế quản trước 
đó,  sự  can  thiệp  thông  khí  nhân  tạo  làm  tổn 
thương viêm trở nên trầm trọng hơn. 
Nhóm bệnh nhân tai biến mạch máu não có 
tỷ lệ hoại tử niêm mạc ít hơn (15,4%). 
Tỷ lệ viêm niêm mạc khí quản theo thời gian 
đặt nội khí quản 
Tỷ lệ hoại tử niêm mạc niêm mạc khí quản 
ở các thời điểm  14 
ngày  thấy không  có  sự khác biệt về  tỷ  lệ  tổn 
thương  hoại  tử  niêm  mạc  khí  quản  (20,0%, 
23,1% và 21,7%). Kết quả nghiên cứu cho thấy 
thời gian  đặt nội khí quản không  có  sự khác 
biệt  về  tỷ  lệ  tổn  thương  niêm mạc  khí  quản. 
Kết quả nghiên cứu chưa phù hợp với nghiên 
cứu  cùa White  đã  đề  cập  tầng  suất  12%  tổn 
thương thanh khí quản sau sau đặt ống trên 11 
ngày, 5% từ 6 đến 10 ngày và 2% nếu đặt NKQ 
ít hơn 6 ngày. 
Tỷ  lệ  viêm  niêm mạc  khí  quản  theo  áp  lực 
bóng chèn ống NKQ 
Kết quả nghiên cứu cho  thấy áp  lực bóng 
chèn  tỷ  lệ  thuận với  tổn  thương hoại  tử niêm 
mạc khí quản, tỷ lệ tổn thương qua các áp lực 
30‐ 39 cmH20 (7,1%), 40‐49 cmH20 (24,0%), 50‐ 
59 cmH20 (30,8%) và > =60 cmH20 (50,0%) tăng 
dần,  áp  lực  càng  lớn  thì  tỷ  lệ  viêm  hoại  tử 
niêm mạc càng cao. Điều này phù hợp với cơ 
sở  lý  thuyết, khi áp  lực  cao  thì  sẽ đè bẹp  các 
mao mạch  nuôi  niêm mạc  khí  quản  gây  tổn 
thương hoại tử niêm mạc. 
Ở các áp lực dưới 40 cmH20 thì tỷ lệ hoại tử 
niêm không  có  sự khác biệt, khả năng do vẫn 
còn máu  lưu  thông  trong mao mạch niêm mạc 
khí quản. Còn các áp  lực > 40 cmH20 thì áp  lực 
càng cao tỷ lệ hoại tử niêm mạc càng cao hơn. 
Tỷ lệ viêm niêm mạc khí quản theo vị trí sinh 
thiết giải phẫu bệnh 
Qua kết quả nghiên cứu cho  thấy các vị  trí 
không tiếp xúc với bóng chèn ống nội khí quản 
thì không xảy ra tình trạng hoại tử niêm mạc khí 
quản. Vị trí tiếp xúc bóng chèn ống nội khí quản 
có tỷ lệ hoại tử niêm cao (28,3%), đây là vấn đề 
rất  đáng  quan  tâm,  qua  nghiên  cứu  chúng  tôi 
thấy cần có  sự quan  tâm hơn về bơm bóng và 
theo dõi áp lực bóng chèn ống nội khí quản, và 
tổn  thương hoại  tử niêm mạc khí quản  có  liên 
quan đến bóng chèn ngay vị trí tiếp xúc đó. Sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,028. 
Tỷ  lệ hoại  tử  sụn khí quản  theo một  số 
yếu tố 
Tỷ lệ hoại tử sụn khí quản theo nhóm tuổi 
Bệnh  nhân  có  hiện  tượng  hoại  tử  sụn  khí 
quản tăng dần theo tuổi > 60 tuổi (72,7%), 40‐ 60 
tuổi  (53,8%) và < 40  tuổi  (27,3%), nó  cũng phù 
hợp với hiện tượng hoại tử niêm mạc khí quản 
(>60 tuổi là 30,2%, từ 40‐ 60 là 15,4% và dưới 40 
tuổi  là  0%). Như vậy qua nghiên  cứu này  cho 
thấy ở người bệnh đặt NKQ thì tổn thương hoại 
tử niêm mạc tỷ  lệ thuận với tuổi, tuổi càng cao 
thì viêm hoại tử nêm mạc khí quản càng cao. Sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,006. 
Tỷ lệ hoại tử sụn khí quản theo giới 
Kết  quả  trên  cho  thấy  ở  giới  nam  có  tỷ  lệ 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 240
hoại  tử sụn cao hơn giới nữ  (72,5%: 51,9%), nó 
phù hợp với kết quả hoại  tử niêm mạc  ở nam 
cao hơn nữ (35,0%: 3,7%). Sự khác biệt không có 
ý nghĩa thống kê với p = 0,084. 
Tỷ lệ hoại tử sụn khí quản theo loại bệnh 
So sánh với hiện tượng hoại tử sụn khí quản 
thì nhóm viêm phổi lại chiếm tỷ lệ hoại tử niêm 
mạc  cao  nhất  (37,5%),  có  thể  trên  bệnh  nhân 
viêm  phổi  thì  niêm mạc  khí  quản  đã  có  viêm 
nhiễm nhiều lần trước đó và tổn thương dễ xảy 
ra hơn niêm mạc  trước đó  là bình  thường. Đặc 
biệt trong nhóm bệnh nhân chấn thương sọ não 
không có  trường hợp nào bị hoại  tử niêm mạc 
nhưng  việc  hoại  tử  sụn  có  xảy  ra  và  chiếm 
46,2%. Như vậy kết quả nghiên cứu cho ta thấy 
rằng  hiện  tượng  hoại  tử  sụn  xảy  ra  trước  và 
nhiều  hơn  hiên  tượng  hoại  tử  niêm mạc  trên 
cùng một nhóm bệnh nhân. Sự khác biệt không 
có ý nghĩa thống kê với p = 0.111. 
Tỷ lệ hoại tử sụn khí quản theo thởi gian đặt 
NKQ 
Kết quả nghiên cứu cho thấy số bênh nhân 
đặt nội khí quản dưới 7 ngày cũng có tỷ lệ hoại 
tử sụn khí quản cao chiếm 60.0%, không có sự 
khác  biệt nhiều  về  tổn  thương hoại  tử  sun  ở 
các  thời  điểm  <1  tuần  (60.0%),  01‐  02  tuần 
(69,2%), và >2  tuần  (56,5%). Như vậy kết quả 
nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về 
thởi gian đặt nội khí quản gây tổn thương hoại 
tử sụn khí quản. Sự khác biệt chưa có ý nghĩa 
thống kê p = 0,589. 
Tỷ  lệ hoại  tử sụn khí quản  theo áp  lực bóng 
chèn ống NKQ 
Kết  quản  trên  cho  thấy  ở  các  áp  lực  bóng 
càng  lớn  thì  tỷ  lệ  tổn  thương  hoại  tử  sụn  khí 
quản càng cao, dưới 30 cmH20  là 22,2%, 30‐ 39 
cmH20 chiếm 57,1%, 40‐49 cmH20 chiếm 76,0%, 
50‐ 59 cmH20 chiếm 84,6%. Có ý nghĩa thống kê 
(p =0,021). Khi áp  lực cao sẽ bẹp các mao mạch 
đưa  đến  thiếu máu  nuôi  để  cung  dưỡng  chất 
nuôi  sụn  khí  quản,  gây  hoại  tử  sụn.  Với  p  = 
0,021, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
Tỷ  lệ  hoại  tử  sụn  khí  quản  theo  vị  trí  sinh 
thiết giải phẫu bệnh 
Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  hiện  tượng 
hoại  tử  sụn khí quản  chỉ xảy  ra ngay  tại vị  trí 
bóng chèn  ống nội khí quản, và chiến  tỷ  lệ  rất 
cao (81,1%), không xảy ra hoại tử sụn ngoài vị trí 
tiếp xúc bóng chèn. Như vậy, hoại tử sụn chỉ xảy 
ra do áp lực bóng chèn nội khí quản ngay tại vị 
trí tiếp xúc bóng. 
Liên  hệ  lại  với  hiện  tượng  hoại  tử  niêm 
mạc khí quản liên quan với vị trí tiếp xúc bóng 
chèn cũng thấy rõ viêm hoại tử niêm mạc khí 
quản  chiếm  tỷ  lệ 28,3%, và  cũng xảy  ra ngay 
tại vị trí tiếp xúc bóng chèn. Như vậy, kết quả 
nghiên cứu cho  thấy hiện  tượng hoại  tử niêm 
mạc và hoại tử sụn khí quản đều giống nhau là 
chỉ xảy ra ngay tại vị trí tiếp xúc với bóng chèn 
ống  nội  khí  quản.  Sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa 
thống kê với p < 0.001 
KẾT LUẬN 
Áp  lực  bóng  chèn  đóng một  vai  trò  quan 
trọng trong tình trạng tổn thương niêm mạc khí 
quản và việc kiểm soát tốt áp lực này góp phần 
cải thiện tình trạng tổn thương này ở bệnh nhân 
bị đặt nội khí quản. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ambesh  SP,  Kaushik  S  (1998),  “Percutaneous  dilational 
tracheostomy:  the  Ciaglia  methol  versus  the  Portex 
(correction of Rapitrach) methol” Anesthesia Analg, pp 556‐ 
561. 
2. Anon  JM,  Gomez  V,  Escuela  Mp  (2000),  “  Perculaneous 
tracheostomy: comperision of Ciaglia and Griggs techniques”, 
Critical Care Medicine, 4, pp 124‐ 128. 
3. Ciaglia  P,  Graniero  K  (1992),  “Percutaneous  dilational 
tracheostomy. Results and  long term follow up”, Chest, 101, 
pp 446‐ 447. 
4. Đặng Xuân Hùng (2010), “Khảo sát các vị trí thường gặp trong 
biến chứng  sẹo hẹp  lòng khí quản  sau phẫu  thuật mở khí quản”, 
Bệnh viện cấp cứu Trưng Vương, Y Học Thực hành (714)‐ số 
4. 
5. Huỳnh Anh (2006), “Nghiên cứu biến chứng mở khí quản tại 
bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương”. Luận Án tốt nghiệp 
chuyên khoa II chuyên nghành Tai Mũi Họng. 
6. Jain M & Dhall U. (2008), “Morphometry of the Theroid and 
Criciod Cartilage”.Journal of Anatomy Society  India, 57  (2), 
119‐ 123. 
7. Nguyễn Quang Quyền (1999), « khí quản, tuyến giáp, tuyến 
cận giáp ».Giải phẫu hoc (Vol. pp. 392‐ 398), Nhà xuất Bản Y 
Học. 
8. Trần Phương Hạnh, Nguyễn Sào Trung (2009): “Tổn thương 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng  241
cơ bản  của  tế bào và mô  trong Giải Phẫu Bệnh Học”, Nhà 
Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam. Tr 17‐40. 
9. Võ Hiếu Bình (1994), “Kích thước thanh khí quản của người 
Việt Nam ở các lứa tuổi”, Luận Án phó tiến sĩ Đại học Y dược 
TP Hồ Chí Minh. 
10. Vurmir RB  (2001).  “Laryngotracheal  Injury  from Prolonged 
tracheal  Intubetion”.  In  Vurmir  RB  (Ed.),  Airway 
Management in the Critically Ill (pp. 87‐ 96): Parthenon. 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 233_1264.pdf 233_1264.pdf