Theo tiến trình lịch sử dân tộc, khoa học giáo dục Việt cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm,
từng bước thực hiện nhiệm vụ phát triển “Trí Việt” bền vững. Bài viết trình bày sự phát triển của khoa
học giáo dục Việt từ lúc hình thành trong thời kỳ chống Mỹ, đến trưởng thành trong những năm đổi mới
đi theo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và thực hiện nhiệm vụ
phát triển bền vững trước bối cảnh mới của nền kinh tế tri thức.
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: Thục Anh | Lượt xem: 627 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu “Khoa học giáo dục Việt” trước nhiệm vụ phát triển “Trí Việt” bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 42 (02-2020)
“KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT”
TRƯỚC NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN “TRÍ VIỆT” BỀN VỮNG
 y Đặng Quốc Bảo(*), Phạm Minh Giản(**)
Tóm tắt
Theo tiến trình lịch sử dân tộc, khoa học giáo dục Việt cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm, 
từng bước thực hiện nhiệm vụ phát triển “Trí Việt” bền vững. Bài viết trình bày sự phát triển của khoa 
học giáo dục Việt từ lúc hình thành trong thời kỳ chống Mỹ, đến trưởng thành trong những năm đổi mới 
đi theo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và thực hiện nhiệm vụ 
phát triển bền vững trước bối cảnh mới của nền kinh tế tri thức. 
Từ khoá: Khoa học giáo dục, Trí Việt, kinh tế tri thức.
1. Đặt vấn đề
Nền giáo dục Việt Nam có hạt nhân Trí Việt 
chỉ có thể phát triển không lạc hậu/ lạc điệu với 
mặt bằng tư duy thời đại khi trong lòng nó có nhân 
tố “Khoa học giáo dục Việt” luôn luôn vận động 
nhân văn và sáng tạo.
Bài viết này xin trình bày một số suy nghĩ về 
“Khoa học giáo dục Việt” trước nhiệm vụ phát triển 
“Trí Việt” bền vững.
2. Nội dung
2.1. “Khoa học giáo dục Việt”: Sự hình thành 
trong những năm tháng chống Mỹ gian khó
Năm 1961, khi đất nước đứng trước ngưỡng 
cuộc đấu tranh chống sự can thiệp của Mỹ và thực 
hiện thống nhất nước nhà, Bộ Giáo dục đã có quyết 
định sáng suốt giúp phát triển nền giáo dục Việt 
Nam, đó là thành lập Viện Nghiên cứu Chương 
trình phương pháp và Viện Nghiên cứu Tâm lý 
Giáo dục. Hai thiết chế này sau đó nhanh chóng 
hợp nhất thành Viện Khoa học giáo dục đặt tại địa 
chỉ số 101 Trần Hưng Đạo, ngôi nhà từng là đại 
bản doanh của Ban Tham mưu quyết định thực hiện 
cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng 08/1945.
Viện Khoa học giáo dục ngay sau khi thành 
lập được cấu trúc thành 3 bộ phận: Ban Nghiên cứu 
các vấn đề giáo dục học do Giáo sư Hà Thế Ngữ 
phụ trách; Ban Nghiên cứu các vấn đề Tâm lý dạy 
học do Giáo sư Nguyễn Đức Minh phụ trách; Ban 
nghiên cứu các vấn đề Chương trình phương pháp 
dạy học do Giáo sư Phạm Văn Hoàn phụ trách.
Viện Khoa học giáo dục đã đi đầu trong việc tổng 
kết được ba tượng đài Anh hùng giáo dục: Trường 
Cấp hai Bắc Lý; Trường Thanh niên Lao động Xã 
hội chủ nghĩa Hòa Bình; Trường xã Cẩm Bình.
Riêng Ban Giáo dục học từ đầu những năm 70 
của thế kỷ XX đã có các tổ nghiên cứu: Tổ nghiên 
cứu Giáo dục học đại cương, Lịch sử giáo dục; Tổ 
nghiên cứu Giáo dục học so sánh; Tổ nghiên cứu 
Kinh tế học giáo dục; Tổ nghiên cứu Xã hội học giáo 
dục; Tổ nghiên cứu Thiết bị giáo dục; Tổ nghiên 
cứu Các vấn đề về pháp lý giáo dục. (Sau này phát 
triển thành Tổ nghiên cứu Quản lý Nhà trường).
Giáo sư Hà Thế Ngữ là trụ cột cho các nghiên 
cứu về Giáo dục học. Cùng với ông có các nhà khoa 
học: Lê Sơn, Nguyễn Gia Quý, Nguyễn Lê Hoà, 
Nguyễn Ngọc Dung, Trần Quốc Dương, Võ Chấp, 
Nguyễn Trọng Hòe
Giáo dục học Việt Nam sớm có sự giao lưu 
quốc tế với UNESCO, với tri thức Việt Kiều yêu 
nước như Học giả Lê Thành Khôi
Cuối những năm 1970, Ban Giáo dục học của 
Viện Khoa học giáo dục có sự cộng tác với cán 
bộ nghiên cứu của Bộ Đại học Trung học Chuyên 
nghiệp: các nhà nghiên cứu Lê Thạc Cán, Đặng Bá 
Lãm, Đỗ Văn Chấn, Nguyễn Công Giáp và sau 
khi Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục do Bộ Trưởng 
Nguyễn Thị Bình thành lập (1976), cán bộ của ban 
còn có sự liên hệ mật thiết với các nhà nghiên cứu: 
Hà Sĩ Hồ, Nguyễn Ngọc Quang và các giảng viên 
của Trường
Giáo dục học Việt Nam sớm khẳng định sự 
trưởng thành khi có cái nhìn bao quát: Giáo dục học 
mầm non; Giáo dục học cho trẻ khuyết tật; Giáo 
dục học người lớn; Giáo dục học đại học, trung 
(*) Viện Trí Việt.
(**) Trường Đại học Đồng Tháp.
11
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 42 (02-2020)
học chuyên nghiệp; Giáo dục học dạy nghề và một 
số loại hình chuyên biệt; Giáo dục học giáo viên.
Sự giao lưu với các nhà khoa học giáo dục 
trong khối các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, 
Cộng hòa Dân chủ Đức, giao lưu với UNESCO đưa 
khoa học giáo dục Việt luôn cập nhật các dòng tư 
duy tiên tiến của thời đại để xây dựng các kế hoạch 
phát triển nhà trường Việt Nam tại các địa phương.
2.2. “Khoa học giáo dục Việt”: Sự trưởng 
thành trong những năm “đổi mới” theo “Cương 
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội”
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của 
Đảng từ ngày 15/12/1986 đến ngày 18/12/1986 đã 
quyết định tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện 
đất nước mở ra bước ngoặt: Xây dựng nền kinh 
tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa ở 
Việt Nam.
Sự kiện ấn tượng là trong năm 1987, Viện 
Khoa học giáo dục Việt Nam có sứ mệnh như một 
Viện Hàn lâm về Khoa học giáo dục của đất nước 
được thành lập. Người đứng đầu của thiết chế này 
là Giáo sư Phạm Minh Hạc.
Từ trước đó 7 năm, giáo sư Phạm Minh Hạc 
đã có bài chuyên luận giá trị đề cập vấn đề “Đối 
tượng của khoa học giáo dục và việc nghiên cứu 
giáo dục”, đăng trong Tạp chí Giáo dục số 2/1980. 
Tác giả Phạm Minh Hạc xác định:
“Cần phân biệt Giáo dục - Dạy học - Khoa 
học giáo dục. Đối tượng của khoa học giáo dục 
quan hệ mật thiết với bản chất và vai trò của giáo 
dục trong sự hình thành con người và với tiến bộ 
xã hội; đồng thời có sự khác biệt. Các khoa học 
giáo dục (không kể tâm lí học) không đi thẳng vào 
nghiên cứu các năng lực thể chất và tinh thần của 
con người, mà nghiên cứu sự tác động qua lại giữa 
cái cần giáo dục (truyền đạt) và cái được giáo dục 
(tiếp thụ, lĩnh hội). Đó là sự tác động qua lại giữa 
người giáo dục và người được giáo dục (giáo viên 
- học sinh, người lớn - trẻ em) giữa lí tưởng của 
xã hội và lí tưởng của từng người quá trình giáo 
dục, logic quá trình đào tạo mà Macarencô gọi là 
“logic sư phạm”. Đây chính là đối tượng của các 
khoa học giáo dục.
Quá trình đào tạo bao gồm việc giáo dục, 
giảng dạy và tập luyện, hình thành và phát triển. 
Đó là hoạt động truyền thụ và hoạt động lĩnh hội 
của giáo viên và học sinh, của xã hội và thế hệ trẻ, 
của cha mẹ và con cái Quá trình này mở đầu là 
những yêu cầu của xã hội đã cụ thể hóa theo từng 
giai đoạn vào mục tiêu và phương pháp (nguyên lí) 
đào tạo. Khâu cuối cùng của quá trình ấy là những 
phẩm chất nhân cách của học sinh (theo nghĩa rộng 
tức là bao hàm cả năng lực hành động) được bộc lộ 
khi học sinh thực hiện chức năng của mình trong 
xã hội. Những phẩm chất này được hình thành và 
phát triển trên cơ sở lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ 
xảo, lí thuyết, thực nghiệm, thực hành. Quá trình 
đào tạo bao giờ cũng là vòng khép kín có “mối hàn” 
là hoạt động sản xuất (theo nghĩa rộng) của xã hội 
và hoạt động lĩnh hội của từng học sinh. Mối hàn 
này được tiến hành theo quy trình “công nghệ” đã 
được đúc kết thành nguyên lí giáo dục: học đi đôi 
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, 
Nhà trường gắn liền với xã hội. Phương pháp đào 
tạo này không tách khỏi các phương tiện tổ chức 
đào tạo, đồng thời bao giờ cũng gắn với hệ thống tác 
động từ phía những cái cần được giáo dục, những 
người giáo dục. Các mối quan hệ qua lại giữa các 
thành tố này, sự hình thành và vận hành của chúng 
- đó là logic của quá trình đào tạo.
Ông đã đề cập đến logic quá trình đào tạo với 
kiến giải rất sắc bén:
(1) Tìm logic của quá trình đào tạo trong phạm 
vi phát triển giáo dục quốc dân và tổ chức, quản 
lý ngành giáo dục trong việc thực hiện chức năng 
của nó với tư cách là một bộ phận của cuộc cách 
mạng tư tưởng văn hóa, đồng thời với tư cách một 
bộ phận của cách mạng khoa học - kĩ thuật. Ở đây 
cần nghiên cứu những vấn đề xã hội học giáo dục, 
kinh tế học giáo dục, tức là xét quá trình đào tạo thế 
hệ trẻ trong bình diện kinh tế, quốc phòng, dân số, 
dân cư, nói tóm lại, dưới góc độ xã hội nói chung.
(2) Có thể đưa bậc một xuống một phạm vi 
địa phương thành bậc hai để xét quá trình đào tạo 
thế hệ trẻ. Bậc này có thể là huyện, với tính cách 
là đơn vị kinh tế - hành chính. Ở đây đi vào những 
vấn đề cụ thể hơn như vấn đề quản lý giáo dục ở cấp 
huyện, tổ chức mạng lưới nhà trường, việc chuẩn 
bị nghề nghiệp (giáo dục hướng nghiệp) cho học 
sinh tương ứng với yêu cầu của cả nước, của địa 
12
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 42 (02-2020)
phương với việc phát huy được năng lực, hứng thú 
của học sinh
(3) Cần và có thể nghiên cứu để tìm ra logic 
của quá trình đào tạo trong hệ thống các quan hệ 
dạy - học thuộc phạm vi một trường (bao gồm các 
tổ chức xã hội, địa phương, gia đình kèm theo).
(4) Một trong những bậc nghiên cứu rất quan 
trọng có thể phát hiện ra tính quy luật của quá trình 
giáo dục là bậc bài học, hay cái gì tương tự, với 
tính cách là phương tiện để thực hiện việc tổ chức, 
điều khiển hoạt động học tập văn hóa, hoạt động 
lao động sản xuất hay công tác xã hội của học sinh.
(5) Bậc cơ bản trong cấu trúc của hoạt động 
giáo dục là bậc người được giáo dục như một nhân 
cách được hình thành và phát triển, vừa là chủ thể 
của hoạt động học tập (bao gồm cả hoạt động lao 
động, hoạt động giao tiếp cũng như các hoạt động 
khác của học sinh), vừa là khách thể của hoạt động 
dạy - học. Các phẩm chất của nhân cách (theo 
nghĩa rộng) là đối tượng của quá trình dạy và học, 
truyền đạt và lĩnh hội. Vì vậy, vấn đề con người, 
vấn đề nhân cách trở thành vấn đề trung tâm của 
khoa học giáo dục. Mục đích của giáo dục là làm 
sao “chuyển” được nội dung của các cái được xét 
trong các bậc trên vào thành nội dung của hoạt động 
lĩnh hội ở học sinh. Ở đây cần giải quyết một loạt 
vấn đề khá phức tạp, chẳng hạn như vấn đề quan 
hệ giữa mục đích giáo dục của xã hội và mục đích 
học tập của từng người, hay vấn đề tác động qua 
lại giữa hệ thống biện pháp tác động sư phạm và 
cái mà lâu nay trong tâm lí học gọi là đặc điểm lứa 
tuổi, hoặc xem xét sản phẩm đạt được trong nhân 
cách từng người có tương ứng với lí tưởng xã hội, 
trong đó so sánh kết quả giáo dục với một bên là 
yêu cầu của mục tiêu đào tạo và với một bên khác 
là thang bậc đánh giá đương thời của xã hội, của 
địa phương. Đây là những vấn đề thuộc lĩnh vực 
tâm lí học sư phạm.
Bài viết của Phạm Minh Hạc đến nay (2019) 
sau gần 40 năm còn giữ nguyên giá trị soi sáng 
cho việc triển khai khi các nghiên cứu khoa học 
giáo dục định vị vào 5 cấp độ sau: (i) Cấp độ nền 
giáo dục trong mối quan hệ với nền kinh tế, nền 
văn hóa, cấu trúc xã hội, cấu trúc chính trị mang 
tính vĩ mô; (ii) Cấp độ hệ thống giáo dục quốc dân 
trong mối quan hệ với các thiết chế đào tạo nhân 
lực cho phát triển kinh tế - văn hóa; (iii) Cấp độ 
nhà trường trong mối quan hệ với phát triển cộng 
đồng; (iv) Cấp độ bài học; (v) Cấp độ nhân cách.
Kỷ niệm 50 năm thành lập Viện Khoa học 
giáo dục Việt Nam (2011), thiết chế này tự hào 
trình bày trước công luận thành tựu khoa học giáo 
dục Việt Nam theo 19 vấn đề sau: Vấn đề 1: Khái 
niệm và các giai đoạn phát triển khoa học giáo dục 
Việt Nam từ đổi mới đến nay; Vấn đề 2: Triết học 
Giáo dục; Vấn đề 3: Xã hội học Giáo dục; Vấn đề 
4: Tâm lý học Giáo dục; Vấn đề 5: Lịch sử Giáo 
dục; Vấn đề 6: Kinh tế học Giáo dục; Vấn đề 7: 
Tài chính Giáo dục; Vấn đề 8: Quản lý Giáo dục; 
Vấn đề 9: Phát triển Nguồn nhân lực; Vấn đề 10: 
Vấn đề Chương trình giáo dục; Vấn đề 11: Phương 
pháp dạy học; Vấn đề 12: Giáo dục Đạo đức; Vấn 
đề 13: Đánh giá kết quả giáo dục; Vấn đề 14: Giáo 
dục đặc biệt; Vấn đề 15: Giáo dục thường xuyên; 
Vấn đề 16: Giáo dục dân tộc; Vấn đề 17: Công nghệ 
giáo dục; Vấn đề 18: Cơ sở vật chất và phương tiện 
dạy học; Vấn đề 19: Khoa học giáo dục Việt Nam 
trong giai đoạn tới. 
2.3. “Khoa học giáo dục Việt” trước yêu 
cầu phát triển “Trí Việt” bền vững
2.3.1. Bối cảnh mới
“Khoa học giáo dục Việt” ngày nay bước vào 
bối cảnh đất nước đang tiến đến nền kinh tế tri 
thức, có nhiệm vụ kiến tạo nền kinh tế chia sẻ và 
đã có mầm mống của “nền giáo dục chia sẻ”. Về 
phạm trù “Nền kinh tế chia sẻ, nền giáo dục chia 
sẻ” đang có nhiều bàn luận.
Xin dẫn ra sau đây một số bàn luận về giáo dục 
của Yuval Noah Harari, một học giả Mỹ người 
Israel. Ông nêu trong tác phẩm “21 bài học cho thế 
kỷ XXI” (NXB Thế giới, Hà Nội, 2019).
Ông bày tỏ những ý kiến về giáo dục: “Loài 
người đang đối mặt các cuộc cách mạng chưa từng 
có tiền lệ, tất cả các câu chuyện cũ của chúng ta 
đang vụn vỡ, và đến giờ chưa có câu chuyện mới 
nào xuất hiện để thay thế chúng. Làm sao ta có 
thể chuẩn bị cho bản thân và con cái trước một thế 
giới đầy những biến chuyển chưa từng có và các 
bất định đến tận gốc rễ như vậy?”
Ông nhấn mạnh: “Một đứa trẻ sinh ra ngày 
13
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 42 (02-2020)
hôm nay sẽ chừng ba mươi mấy tuổi vào năm 2050. 
Nếu mọi thứ suôn sẻ, đứa trẻ đó sẽ vẫn còn ở đây 
vào năm 2100 và thậm chí có thể vẫn là một công 
dân tích cực của thế kỷ XXII. Ta nên dạy đứa trẻ 
đó điều gì để giúp nó tồn tại và phát triển trong thế 
giới năm 2050 hay thế kỷ XXII? Nó sẽ cần loại 
kỹ năng gì để kiếm được việc làm, để hiểu được 
những gì đang xảy ra xung quanh nó và tìm hướng 
đi trong mê cung cuộc đời?
Thật không may, chẳng ai biết thế giới sẽ ra 
làm sao vào năm 2050 chứ đừng nói đến năm 2100 
nên chúng ta không có câu trả lời cho những câu 
hỏi trên. Dĩ nhiên, con người không bao giờ có thể 
dự đoán tương lai một cách chính xác. Nhưng ngày 
nay, việc ấy lại càng khó hơn bao giờ hết bởi một 
khi công nghệ cho phép chúng ta điều chỉnh cơ thể, 
não bộ và tâm trí, chúng ta không còn có thể chắc 
chắn về bất cứ thứ gì nữa, bao gồm cả những thứ 
trước giờ có vẻ như cố định và vĩnh hằng.
Một ngàn năm trước, vào năm 1018, có rất 
nhiều thứ con người không biết về tương lai, nhưng 
họ vẫn tin rằng các tính chất cơ bản của xã hội loài 
người sẽ không thay đổi. Nếu bạn sống ở Trung 
Quốc vào năm 1018, bạn có thể nghĩ rằng đến năm 
1050, nhà Tống có thể sụp đổ, dân Khiết Đan có 
thể xâm lược từ phương Bắc và bệnh dịch có thể 
giết hàng triệu người. Tuy nhiên, rõ ràng là đến 
năm 1050, hầu hết mọi người vẫn sẽ là nông dân 
và thợ dệt, các nhà thống trị vẫn phải phụ thuộc vào 
con người để lấy nhân lực cho quân đội và chính 
quyền, đàn ông vẫn tiếp tục thống trị đàn bà, tuổi 
thọ vẫn cỡ bốn mươi và cơ thể người sẽ vẫn y hệt 
như thế. Do đó vào năm 1018, cha mẹ nghèo người 
Trung Quốc sẽ dạy con cách trồng lúa hay dệt vải; 
cha mẹ giàu hơn sẽ dạy con trai đọc các sách kinh 
điển Khổng giáo, viết thư pháp hay chiến đấu trên 
lưng ngựa và dạy con gái trở thành những bà nội 
trợ khiêm cung và phục tùng. Rõ ràng, các kỹ năng 
trên vẫn cần thiết đến năm 1050.
Trái lại, ngày nay chúng ta chẳng biết Trung 
Quốc hay phần còn lại của thế giới sẽ ra sao vào 
năm 2050. Chúng ta không biết người ta sẽ làm 
gì để kiếm sống, chúng ta không biết quân đội và 
chính quyền sẽ hoạt động như thế nào, chúng ta 
không biết các quan hệ giới tính sẽ ra sao. Một số 
người có thể sẽ sống lâu hơn nhiều so với ngày nay 
và bản thân cơ thể người có thể trải qua một cuộc 
cách mạng chưa từng có nhờ công nghệ sinh học 
và kết nối trực tiếp não bộ - máy tính. Nhiều thứ 
trẻ con học được ngày nay có khả năng sẽ trở nên 
vô dụng vào năm 2050”.
Ông đặt ra câu hỏi: “Thế thì ta nên dạy gì?”
Và Ông nêu câu trả lời: “Nhiều chuyên gia 
sư phạm cho rằng trường học nên chuyển sang 
việc dạy “bốn chữ C”, tức tư duy phản biện, 
giao tiếp, hợp tác và sáng tạo (Critical Thinking, 
Communication, Collaboration, Creativity). Nói 
rộng hơn, họ tin là trường học nên giảm bớt các kỹ 
năng kỹ thuật và nhấn mạnh vào các kỹ năng sống 
đa mục đích. Quan trọng hơn cả sẽ là khả năng đối 
phó với thay đổi, học điều mới và duy trì cân bằng 
tâm lý trong các tình huống xa lạ. Để theo kịp thế 
giới năm 2050, bạn sẽ không chỉ cần sáng tạo các 
ý tưởng và sản phẩm mới mà trên hết, bạn sẽ cần 
tự đổi mới mình hết lần này đến lần khác”.
Ý tưởng của học giả trên cần phải suy nghĩ. 
Song với nhà trường Việt Nam, nền giáo dục Việt 
Nam thì vô luận trường hợp nào cũng phải giáo 
dục cho thế hệ trẻ có sự phát triển hài hòa trên cả 
3 khía cạnh: Giữ gìn được nhân tính; Bảo tồn được 
quốc tính; Khẳng định được cá tính.
2.3.2. Các đường hướng chủ đạo cho phát 
triển “Khoa học giáo dục Việt” trong bối cảnh mới
Khoa học giáo dục Việt cần đặt trên “Bốn trụ 
cột” (tiếp thu từ sự tọa đàm với Viện trưởng Viện 
Trí Việt, Giáo sư Tô Duy Hợp):
a. Giáo Việt Ký
Nghiên cứu trên tinh thần liên/xuyên ngành sự 
phát triển của nền giáo dục Việt qua 5 thời kỳ: Giáo 
dục Việt thời Văn Lang - Âu Lạc; Giáo dục Việt thời 
tiếp biến văn hóa Hán; Giáo dục Việt thời Việt Nho; 
Giáo dục Việt thời tiếp biến văn hóa Pháp; Giáo 
dục Việt thời hiện đại. Từ đó rút ra “tính quy luật” 
của nền giáo dục Việt trong dòng chảy phát triển.
b. Giáo Việt Đạo
Nhờ có các giá trị cốt lõi mà nền giáo dục này 
đã vận động không ngừng giữ gìn bản sắc lại tiếp 
biến với các giá trị của thời đại. Có thể nêu một 
số tư duy sau của tiền nhân và quan điểm của các 
nhà văn hóa hiện đại về giáo dục trở thành “Đạo 
học giáo dục Việt”. 
14
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 42 (02-2020)
Nguyễn Trãi (1380-1442): “Nên thợ - Nên 
thầy vì có học; No ăn - No mặc bởi hay làm”.
Lê Quý Đôn (1726-1784) - Nguyễn Thị Ngọc 
Diễm (1721-1786): “Quy nông tất ổn; Quy công 
tất phú; Quy thương tất hoạt; Quy trí tất hưng; Quy 
pháp tất bình”.
Sách Ấu Học Ngũ Ngôn Thi (Một cuốn sách 
giáo khoa của người Việt biên soạn, có thể ra đời 
trong thời Lê Trung Hưng)
“Di tử kim mãn doanh
Hà như giáo nhất kinh
Dưỡng tử giáo độc thư
Thư trung hữu kim ngọc”
(Để cho con hòm vàng đầy
Không bằng dạy cho con một cuốn sách
Nuôi con mà biết dạy con đọc sách
Thì trong sách có ngọc)
Phan Chu Trinh (1872-1926): “Khai dân trí - 
Chấn dân khí - Hậu dân sinh”.
Hồ Chí Minh (1890-1969): “Vì lợi ích mười 
năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Phạm Văn Đồng (1906-2000): “Trường ra 
Trường, Lớp ra Lớp; Thầy ra Thầy, Trò ra Trò; Dạy 
ra Dạy, Học ra Học”.
c. Giáo Việt Triết
Người Việt không chuộng các phát biểu mang 
tính hàn lâm (Triết lý) song lại có các phát biểu sâu 
sắc mang tính minh triết: 
Học ăn, học nói, học gói, học mở
Học đi chỉ có một năm, 
Học dừng học đến mòn răng chưa thành
Biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe
Ăn vóc học hay
Học thầy không tày học bạn
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
Các minh triết này đang hòa nhập với tư duy 
thời đại khi có nền kinh tế chia sẻ - nền giáo dục 
chia sẻ với triết học dạy học kiến tạo.
d. Giáo Việt Khoa
Giáo dục Việt từng có các phương pháp dạy 
học giáo dục độc đáo khi triển khai nền giáo dục 
Tân học. 
Cần tổng kết kiểu dạy học/Giáo dục của Đông 
Kinh Nghĩa Thục (1907) của Truyền bá Quốc ngữ/
Bình dân học vụ (1938-1946) của Trường Bắc Lý 
(Thập niên 60 thế kỷ XX) của Trường Thực nghiệm 
Giảng Võ, của Trường Đinh Tiên Hoàng, Trường 
Nguyễn Bỉnh Khiêm (Từ 1989 đến nay).
2.3.3. Trọng tâm của “Khoa học giáo dục 
Việt” vô luận hoàn cảnh nào cũng phải hướng vào 
việc hỗ trợ các nhà trường, các gia đình, các tổ 
chức xã hội phát triển “Nhân cách Việt”
Có thể luận bàn nhiều về mô hình nhân cách 
Việt. Xin nêu một tiếp cận sau đây: 
Nhân cách Việt phải quán triệt 4 phạm trù 
“H”: Học - Hỏi - Hiểu - Hành (Thể hiện cho cá 
tính), Yêu nước - Yêu lao động - Dũng cảm - Tự 
trọng (Thể hiện cho quốc tính) và 4 phạm trù “C” 
bao gồm “Tư duy phản biện, Năng lực giao tiếp, 
Năng lực hợp tác và Năng lực sáng tạo / Critical 
hinking, Communication, Collaboration, Creativity 
(thể hiện cho nhân tính).
Như vậy Paradigm tổng quát gồm 3 hình 
vuông bao lấy nhau:
Hình vuông hạt nhân ABCD thể hiện cho cá tính
Hình vuông EFGH thể hiện cho quốc tính
Hình vuông MNPQ thể hiện cho nhân tính
Hình 1. Paradigm tổng quát về nhân cách Việt
Xin dẫn ra sau đây một số tinh hoa văn hóa 
Việt mà khoa học giáo dục Việt cần quán triệt:
Người công dân Việt thu hoạch 3 lời thơ của 
Đại thi hào Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng 
ba chữ tài”; “Mà trong lẽ phải có người có ta”; 
“Biết đường khinh trọng, nói lời phải chăng” để 
Năng lực 
sáng tạo M
Q
Năng lực 
hợp tác Năng lực 
giao tiếp
G
Dũng cảm
Yêu lao động
F
 Tư duy
N phản biện
 Yêu nước
E
 C Hiếu D
Hành
Học
A
O
Hỏi
B
P
H
Tự trọng
15
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 42 (02-2020)
có kiến thức, thái độ, hành động ứng xử hiệu quả 
trong cuộc đời.
Người công dân Việt lĩnh hội cảm xúc của Hồ 
Chí Minh từ “Ấu Học Ngũ Ngôn Thi” để có quyết 
tâm: “Tạc sơn thông đại hải; Luyện thạch bồ thanh 
thiên; Thế thượng vô nan sự; Nhân tâm tự bất kiên” 
(Không có việc gì khó; Chỉ sợ lòng không bền; Đào 
núi và lấp biển; Quyết chí ắt làm nên).
Người công dân Việt, đặc biệt thế hệ trẻ trong 
bối cảnh tiến đến nền kinh tế tri thức có hoài bão 
sống sáng tạo trách nhiệm, thực hiện được lời dạy 
của Thiền sư Quảng Nghiêm (1121-1190) (Ông quê 
ở huyện Đan Phượng, Hà Nội, sống ở đời Trần rất 
được nhân dân kính trọng).
Hình 2. Mô hình tổng quát về yêu cầu “Khoa học 
giáo dục Việt” vận động đảm bảo cho “Trí Việt” phát 
triển bền vững
“Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu hướng Như Lai hành xử hành”
(Làm trai có chí xông trời thẳm
Đừng nhọc lòng theo bước chân của Như Lai).
Người công dân Việt có ý thức đoàn kết hợp 
quần dù tiến vào hội nhập vẫn tâm niệm “Tứ Tôn” 
mà nhà văn hóa Nguyễn Khắc Niêm (1889-1954) 
đã huấn đức: “Tôn tộc đại quy; Tôn lộc đại suy; 
Tôn tài đại thịnh; Tôn nịnh đại nguy”.
3. Kết luận
Khoa học giáo dục Việt được hình thành trong 
cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhanh chóng khẳng 
định được sự trưởng thành, luôn tiếp cận các dòng 
tư tưởng tiên tiến của thời đại bấy giờ. Nổi bật 
nhất là bước qua giai đoạn đổi mới toàn diện đất 
nước, khoa học giáo dục Việt gặt hái được những 
thành tựu đáng kể, Viện Khoa học giáo dục Việt 
Nam được xem là viện hàn lâm của Việt Nam 
chuyên nghiên cứu khoa học giáo dục. Bước qua 
thế kỷ XXI, tiếp xúc nền kinh tế tri thức, khoa học 
giáo dục Việt cũng không ngừng thay đổi, giữ gìn 
những giá trị truyền thống tốt đẹp vốn có, và tiếp 
thu những tri thức tinh hoa mới của thế giới, làm 
giàu tri thức dân tộc. 
Nhìn chung, cho dù trong giai đoạn lịch sử 
nào, khoa học giáo dục Việt cũng phải tập trung 
vào việc hỗ trợ nhà trường, gia đình và các tổ chức 
xã hội phát triển “nhân cách Việt”, để hoàn thành 
nhiệm vụ phát triển “Trí Việt” bền vững./.
Tài liệu tham khảo
[1]. Phạm Minh Hạc (2014), Luận bàn về Giáo dục/Quản lý Giáo dục, NXB Giáo dục Việt Nam, 
Hà Nội.
[2]. Yuval Noah Harari (2019), 21 Bài học cho thế kỷ 21, NXB Thế giới - Nhã Nam, Hà Nội.
[3]. Tô Duy Hợp và nhiều tác giả (2016), Khoa học tư duy từ nhiều tiếp cận khác nhau, NXB Tri 
thức Hà Nội.
[4]. Phan Văn Kha, Nguyễn Lộc (2011), Khoa học giáo dục Việt Nam từ đổi mới đến nay, NXB 
Đại học Quốc gia Hà Nội.
THE ROLE OF VIETNAM’S EDUCATIONAL SCIENCE IN DEVELOPING “VIET MIND” 
SUSTAINABLY
Abstract
 During the course of the nation’s history, Vietnam’ educational science has experienced vicissitudes 
in undertaking assignments of developing “Viet Mind” sustainably. This article aims to present the 
development of Vietnam’s education science from its foundation in the war time against American 
imperialists to its growth in the years of innovation based on the political credos of building the 
nation moving towards socialism, and its duties of implementing sustainable development in the new 
circumstances of intellectual economy.
Keywords: Educational science, Viet Mind, intellectual economy.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 khoa_hoc_giao_duc_viet_truoc_nhiem_vu_phat_trien_tri_viet_be.pdf khoa_hoc_giao_duc_viet_truoc_nhiem_vu_phat_trien_tri_viet_be.pdf