Luận văn Hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty TNHH Đức Phương

Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, yếu tố cơ bản để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường liên tục, đó là nguyên vật liệu, nguyên vật liệu là tư liệu lao động chủ yếu, là yếu tố đầu vào cấu thành nên thực thể sản phẩm. Chi phí về nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, khoản mục chi phí nguyên vật liệu chiếm một tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Mọi sự biến động về chi phí nguyên vật liệu đều làm ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp. Do vậy, hạ thấp và tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu là giảm một phần đáng kể chi phí sản xuất. Tiết kiệm chi phí sản xuất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm đó là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp có thể giảm giá bán, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng lợi nhuận thu được. Để đạt được mục đích này thì các doanh nghiệp phải có một chế độ quản lý và sử dụng nguyên vật liệu hợp lý khoa học, có công tác hạch toán vật liệu phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp là rất cần thiết.

Em đã chọn đề tài “Hoàn thiện công tác kế

 

toán nguyên vật liệu tại Công ty TNHH Đức Phương” làm đề tài cho bài luận văn tốt nghiệp của mình.

 

doc127 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 982 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty TNHH Đức Phương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, sau khi ra nhập WTO Việt Nam đã không ngừng đổi mới để hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, có nhiều doanh nghiệp đã ra đời và không ngừng lớn mạnh. Nhưng để có tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt của thị trường các doanh nghiệp cần phải xác định các yếu tố đầu vào sao cho hợp lý, phải quan tâm đến tất cả các khâu trong quá trình sản xuất từ khi bỏ vốn ra đến khi thu hồi vốn về. Đảm bảo thu nhập của đơn vị, hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước, cải tiến đời sống cho cán bộ công nhân viên và thực hiện tái sản xuất mở rộng. Các doanh nghiệp cần phải hoàn thiện các bước thật cẩn thận và nhanh chóng sao cho kết quả đầu ra là cao nhất, với giá cả và chất lượng sản phẩm có sức hút đối với người tiêu dùng. 1. Lý do chọn đề tài: Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, yếu tố cơ bản để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường liên tục, đó là nguyên vật liệu, nguyên vật liệu là tư liệu lao động chủ yếu, là yếu tố đầu vào cấu thành nên thực thể sản phẩm. Chi phí về nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, khoản mục chi phí nguyên vật liệu chiếm một tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Mọi sự biến động về chi phí nguyên vật liệu đều làm ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp. Do vậy, hạ thấp và tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu là giảm một phần đáng kể chi phí sản xuất. Tiết kiệm chi phí sản xuất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm đó là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp có thể giảm giá bán, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng lợi nhuận thu được. Để đạt được mục đích này thì các doanh nghiệp phải có một chế độ quản lý và sử dụng nguyên vật liệu hợp lý khoa học, có công tác hạch toán vật liệu phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp là rất cần thiết. Em đã chọn đề tài “Hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty TNHH Đức Phương” làm đề tài cho bài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu * Mục tiêu chung: Trên cơ sở nghiên cứu công tác hạch toán kế toán nguyên vật liệu tại Công ty, đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác quản trị nguyên vật liệu tại công ty trong thời gian tới. * Mục tiêu cụ thể: - Hệ thống hoá cơ sở lý luận về kế toán nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất. - Phân tích, đánh giá thực trạng công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty. - Đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty TNHH Đức Phương. 4. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu về công tác hạch toán kế toán tại Công ty TNHH Đức Phương trong khoảng thời gian từ ngày 11 tháng 1 năm 2011 đến ngày 10 tháng 4 năm 2011. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1.Phương pháp thu thập, xử lý số liệu Thu thập, tập hợp số liệu thực tế trong suốt quá trình thực tập tại công ty. Sắp xếp và xử lý các số liệu hợp lý nhằm đem lại những thông tin có ích. 5.2.Phương pháp kế toán Thông qua việc thu thập các chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán sử dụng trong tại Công ty TNHH Đức Phương để ghi chép vào các chứng từ sổ sách, biểu mẫu có liên quan, sử dụng các sơ đồ hạch toán tổng quát về kế toán nguyên vật liệu. 5.3. Phương pháp tổng hợp, phân tích kinh doanh. Dựa vào số liệu đã thu thập, tổng hợp được, tính toán các chỉ tiêu phản ánh tình hình cơ bản của công ty, trên cơ sở đó so sánh và rút ra nhận xét. 6. Những đóng góp khoa học của luận văn. Trong quá học tập tại trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội và thực tập ở tại Công ty TNHH Đức Phương em hoàn thiện khả năng hiểu biết của mình về công tác kế toán nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất, biết vận dụng những lý luận khoa học đã học trong nhà trường áp dụng vào thực tiễn. Từ đó đã nhận ra những ưu điểm và nhược điểm hiện có của công ty cho nên em đã mạnh dạn đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại tại Công ty TNHH Đức Phương. 7. Kết cấu của bài luận văn. Ngoài phần mở đầu, mục lục, các danh mục và phần phụ lục thì nội dung của luận văn được chia làm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về kế toán nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất. Chương II: Tình hình thực tế về công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty TNHH Đức Phương. Chương III: Một số nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty TNHH Đức Phương. Trong quá trình thực hiện luận văn này, em đã nhận được sự chỉ dẫn tận tình của Thạc sỹ Phạm Thị Hồng Diệp cùng cán bộ nhân viên phòng kế toán của Công ty TNHH Đức Phương cùng với sự nỗ lực của bản thân. Nhưng do thời gian thực tập chưa nhiều, trình độ và kiến thức của em còn nhiều hạn chế nên bài luận văn tốt nghiệp của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong và chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và toàn thể nhân viên phòng kế toán Công ty TNHH Đức Phương để bài luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 06 tháng 04 năm 2011 Sinh viên Nguyễn Thị Oanh CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT 1.1. Sự cần thiết tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất. 1.1.1. Vị trí của nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất. Trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nguyên vật liệu là bộ phận thuộc tài sản lưu động của doanh nghiệp đồng thời là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất sản phẩm. Nguyên vật liệu có đặc điểm là bị tiêu hao toàn bộ và chuyển giá trị một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ do vậy việc cung cấp nguyên vật liệu có đầy đủ, kịp thời cả về số lượng chất, chất lượng thì việc sản xuất sản phẩm mới được nhanh chóng và không bị gián đoạn, sản phẩm được sản xuất ra mới đảm bảo về chất lượng và hình thức như được mong đợi. Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế thị trường hiện nay chỉ các doanh nghiệp kinh doanh thực sự có lãi thì mới có thể tồn tại và phát triển. Vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi doanh nghiệp là phải nâng chất lượng và hạ giá thành sản xuất. Muốn hạ giá thành sản xuất thì cần giảm chi phí vật kiệu một cách hợp lý mà không làm ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm, từ đó góp phần làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Từ đó ta thấy vật liệu có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng đến quá trình sản xuất mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. 1.1.2. Đặc điểm, yêu cầu quản lý nguyên vật liệu. Với hầu hết các doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất được thì tất yếu phải có nguyên vật liệu vì vậy nguyên vật liệu là yếu tố khách quan của mọi nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên do trình độ sản xuất khác nhau nên phạm vi, mức độ, phương pháp quản lý nguyên vật liệu cũng khác nhau. Trong giai đoạn hiện nay nền sản xuất càng mở rộng và phát triển trên cơ sở thỏa mãn nhu cầu vật chất và văn hóa của cộng đồng xã hội. Việc sử dụng hợp lý có hiệu quả, tiết kiệm nguyên vật liệu ngày càng được coi trọng. Tổ chức công tác hạch toán nguyên vật liệu là điều kiện quan trọng không thế thiếu để quản lý vật liệu, thúc đẩy cung cấp kịp thời, đồng bộ vật liệu cho sản xuất, kiểm tra giám sát việc chấp hành các định mức dự trữ, tiêu hao vật liệu trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất, góp phần giảm chi phí hạ thành của sản phẩm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Hạch toán nguyên vật liệu phải phán ánh kịp thời, chính xác số lượng chất lượng và giá thành thực tế vật liệu thu mua nhập kho. Từ đó kiểm tra và giám sát được tình hình thực hiện các định mức tiêu hao, sử dụng vật liệu. Xác định và phản ánh chính xác số lượng và giá trị vật liệu tồn kho, kiểm tra việc chấp hành các định mức dự trữ nguyên vật liệu, tổ chức bảo quản và thực hiện các thủ tục nhập kho, xuất kho, phát hiện kịp thời mức độ, nguyên nhân thừa, thiếu, hư hỏng, mất phẩm chất nguyên vật liệu. 1.1.3. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất. 1.1.3.1. Vai trò của kế toán nguyên vật liệu. Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động theo cơ chế thị trường đều hướng vào mục tiêu tối đa lợi nhuận và càng ngày càng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Để đạt được mục đích này doanh nghiệp cần phải sử dụng nhiều biện pháp tổ chức quản lý. Song một trong những biện pháp cơ bản được sử dụng tích cực hơn cả là không ngừng thực hiện tốt công tác kế toán nói chung và công tác kế toán nguyên vật liệu nói riêng. Như vậy kế toán nguyên vật liệu có một vai trò quan trọng trong công tác quản lý của doanh nghiệp nói chung và trong công tác kế toán nói riêng. Doanh nghiệp sử dụng công cụ quản lý này là để tránh lãng phí, gian lận, sai sót xảy ra trong quá trình sử dụng nguyên vật liệu để từ đó hạ được chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm và bình ổn được doanh thu. 1.1.3.2. Nhiệm vụ của kế toán nguyên vật liệu. Phản ánh đầy đủ, kịp thời số hiện có và tình hình biến động của các loại vật tư về cả giá trị và hiện vật. Tính toán chính xác giá gốc (hoặc giá thành thực tế) của từng loại, từng thứ vật tư nhập, xuất, tồn kho. Đảm bảo cung cấp kịp thời các thông tin phục vụ cho yêu cầu quản lý vật tư của doanh nghiệp. Kiểm tra, giám sát tình hình thực tế kế hoạch mua, dự trữ và sử dụng từng loại vật liệu đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2. Những vấn đề chung về nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất. 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của nguyên vật liệu. Nguyên liệu, vật liệu trong doanh nghiệp là những đối tượng lao động mua ngoài hoặc tự chế biến dùng cho mục đích sản xuất, chế tạo sản phẩm hoặc dùng cho quản lý doanh nghiệp. Đặc điểm của nguyên vật liệu là chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh nhất định và toàn bộ giá trị vật liệu được chuyển hóa một lần vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vật liệu bị biến dạnh hoặc tiêu hao hoàn toàn. Vật liệu được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: mua ngoài, tự sản xuất, nhận vốn góp liên doanh, vốn góp của các thành viên tham gia công ty…., trong đó chủ yếu là doanh nghiệp mua ngoài. Trong nền kinh tế quốc dân, bất kỳ doanh nghiệp sản xuất nào khi tiến hành sản xuất đều phải có đầy đủ ba yếu tố cơ bản là: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Trong các yếu tố đó, vật liệu là đối tượng lao động – một yếu tố cơ bản không thể thiếu được của quá trình sản xuất, là cơ sở cấu thành nên thực thể của sản phẩm. Trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất của kinh doanh vật liệu chỉ tham gia vào một quá trình sản xuất, nó bị tiêu dùng hoàn toàn và chuyển dịch toàn bộ giá trị một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Trong các doanh nghiệp sản xuất thì nguyên vật liệu là tài sản dự trữ của sản xuất thuộc tài sản lưu động. Nguyên vật liệu là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh, giá trị vật liệu tiêu hao cho quá trình sản xuất kinh doanh tạo nên giá trị sản phẩm dịch vụ và tỷ trọng của chúng trong giá trị sản phẩm dịch vụ tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp. Thông thường đối với các doanh nghiệp sản xuất thì giá trị vật liệu chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu trong giá trị sản phẩm. Mặt khác trong các doanh nghiệp sản xuất, chi phí về vật liệu thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Nên quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm, vật liệu chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và khi tham gia vào quá trình sản xuất nguyên vật liệu bị tiêu dùng hoàn toàn và thay đổi hình thái vật chất ban đầu hình thành nên thực thể sản phẩm hay giá trị nguyên vật liệu bị chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm mới tạo ra. Nói tóm lại nguyên vật liệu giữ một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp sản xuất. 1.2.2. Phân loại nguyên vật liệu. Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, các doanh nghiệp thường sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau, mỗi loại nguyên vật liệu có công dụng, vai trò và tính năng cơ, lý, hóa khác nhau.Do đó, để quản lý một cách chặt chẽ nguyên vật liệu và hạch toán chính xác nguyên vật liệu đòi hỏi phải sắp xếp vật liệu thành từng loại, từng nhóm theo một tiêu thức nhất định. Tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp cụ thể, thuộc các ngành sản xuất khác nhau mà nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp có sự phân chia khác nhau theo tiêu thức nhất định. Phân loại theo nội dung kinh tế. - Nguyên vật liệu chính : Là đối tượng lao động chủ yếu của doanh nghiệp, đó là những nguyên vật liệu mà khi tham gia vào quá trình sản xuất nó cấu thành nên thực thể vật chất của sản phẩm. Ví dụ: Sắt, thép trong công nghiệp cơ khí Bông trong công nghiệp dệt - Vật liệu phụ: Là những vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nó có thể kết hợp với vật liệu chính để làm tăng chất lượng sản phẩm, tăng giá trị sử dụng của sản phẩm, hàng hóa. Ví dụ: Thuốc nhuộm, thuốc tẩy trong doanh nghiệp dệt. - Nhiên liệu: Là vật liệu phụ dùng để cung cấp nhiệt lượng hoặc tạo nguồn năng lượng cho quá trình sản xuất kinh doanh, như: xăng, dầu, hơi đốt, than, củi… - Phụ tùng thay thế: Là những chi tiết máy móc thiết bị mà doanh nghiệp mua về dùng để thay thế trong sửa chữa máy móc thiết bị hỏng, phương tiện vân tải, như: vòng bi, vòng đệm, săm lốp… - Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản Cả hai loại này đều là cơ sở chủ yếu cấu thành nên sản phẩm xây lắp, nhưng chúng khác với vật liệu xây dựng nên được sắp xếp vào loại riêng.Cụ thể: + Thiết bị xây dựng cơ bản: Là những thiết bị được sử dụng cho công việc xây dựng cơ bản như: thiết bị vệ sinh, thiết bị thông gió, thiết bị hơi ấm....mà doanh nghiệp mua về nhằm mục đích đầu tư cho xây dựng cơ bản. + Vật kết cấu: là những bộ phận của sản phẩm xây dựng cơ bản mà doanh nghiệp xây dựng tự sản xuất hoặc mua của doanh nghiệp khác để lắp vào công trình xây dựng. Như: Vật kết cấu bê tông đúc sẵn, vật kết cấu bằng kim loại đúc sẵn.... - Phế liệu: Là các loại vật liệu đã mất hết hoặc một phần lớn gía trị phế liệu ban đầu và các vật liệu này thu được trong quá trình sản xuất hay thanh lý tài sản như: sắt, thép vụn, gỗ vụn, vải vụn, gạch vỡ … - Vật liệu khác: Là những vật liệu không nằm trong những vật liệu kể trên, như bao bì, vật đóng gói, các loại vật tư đặc chủng . Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý và hạch toán chi tiết cụ thể của từng doanh nghiệp mà trong từng loại vật liệu kể trên chia thành từng nhóm, từng thứ, từng quy cách… - Tác dụng của cách phân loại theo nội dung kinh tế: + Là cơ sở để xác minh định mức tiêu hao dự trữ cho từng loại, từng thứ vật liệu. + Là cơ sở để tổ chức hạch toán chi phí vật liệu trong doanh nghiệp. Phân loại theo danh điểm. Dựa vào tính chất lý, hoá của vật liệu để phân loại vật liệu thành các nhóm sau: - Nhóm kim loại (đen, màu) - Nhóm hoá chất ( chất ăn mòn, chất nổ ) - Nhóm thảo mộc ( đồ gỗ…) - Nhóm thuỷ tinh, sành sứ Để thuận tiện trong công tác quản lý, phân loại vật liệu theo cách này được mã hóa và được thống nhất trong toàn đơn vị hạch toán hay trong toàn ngành. Kế toán thường phối hợp cả hai cách phân loại trên để mở sổ theo dõi phục vụ cho yêu cầu quản lý và hạch toán. - Tác dụng của cách phân loại theo danh điểm: Thống nhất được giá, ký hiệu được các loại vật liệu giúp cho việc quản lý vật liệu tốt. Tổ chức kho bãi hợp lý, khoa học góp phần bảo quản tốt vật liệu, tránh hư hỏng, mất mát, thiệt hại khi rủi ro... Phân loại theo nguồn cung cấp. - Nguyên vật liệu nhập từ bên ngoài như: mua ngoài, góp vốn liên doanh, được cấp phát, biếu tặng… - Nguyên vật liệu tự chế (do doanh nghiệp tự sản xuất) - Tác dụng của cách phân loại này: Làm căn cứ cho kế hoạch thu mua và kế hoạch sản xuất nguyên vật liệu, là cơ sở để xác định giá vốn nguyên vật liệu nhập kho. Phân loại theo mục đích và công dụng của nguyên vật liệu. - Nguyên vật liệu dùng trong sản xuất kinh doanh: Nguyên vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất chế tạo sản phẩm, hoặc dùng cho quản lý phân xưởng, bộ phận bán hàng, bộ phận quản lý doanh nghiệp. - Nguyên vật liệu dùng cho nhu cầu khác: Đem góp vốn liên doanh, đem đi biếu tặng, nhượng bán… 1.2.3. Đánh giá nguyên vật liệu. 1.2.3.1. Nguyên tắc đánh giá vật tư. - Nguyên tắc giá gốc (theo chuẩn mực 02 – Hàng tồn kho): Vật liệu phải được đánh giá theo giá gốc. Giá gốc hay còn gọi là trị giá gốc của vật liệu là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để có được những vật liệu ở địa điểm và trạng thái hiện tại. - Nguyên tắc thận trọng: Vật liệu phải được tính theo giá gốc, nhưng trong trường hợp giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn giá gốc thì tính theo giá trị thuần có thể thực hiện được. Thực hiện nguyên tắc thận trọng bằng cách trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho. - Nguyên tắc nhất quán: Các phương pháp kế toán áp dụng trong đánh giá vật liệu phải đảm bảo tính nhất quán. Tức là kế toán đã chọn phương pháp nào thì phải áp dụng phương pháp đó thống nhất trong suốt liên độ kế toán. Doanh nghiệp có thể thay đổi phương pháp đã chọn, nhưng phải đảm bảo phương pháp thay thế cho phép trình bày thông tin kế toán một cách trung thực và hợp lý hơn đồng thời phải giải thích được ảnh hưởng của sự thay đổi đó. 1.2.3.2. Những văn bản pháp quy thường dùng trong kế toán nguyên vật liệu. - Chuẩn mực kế toán số 02 - Hàng tồn kho ban hành kèm theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. - Chuẩn mực số 18: Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng (ban hành và công bố theo quyết định số 100/QĐ-BTC ngày 28/12/2005 của bộ trưởng bộ tài chính) - Thông tư 205/2009/TT-BTC ngày 26-10-2009, Hướng dẫn thủ tục hoàn thuế giá trị gia tăng đối với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, vật tư xây dựng, nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm. - Thông tư số 237/2009/TT-BTC ngày 18-12-2009, Hướng dẫn xử lý thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu, máy móc nhập khẩu theo hợp đồng gia công, sản xuất hàng xuất khẩu nhưng bị hư hỏng, tổn thất. - Thông tư số 228/2009/TT-BTC ngày 07/12/2009, Hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư tài chính, nợ phải thu khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp tại doanh nghiệp. - Thông tư của Bộ Tài chính số 129/2008/TT-BTC ngày 26 tháng 12 năm 2008 hướng dẫn thi hành một số điều của  Luật Thuế Giá trị gia tăng và hướng dẫn thi hành nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2008 của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế Giá trị gia tăng. - Ngoài ra còn nhiều văn bản pháp quy nữa 1.2.3.3. Đánh giá nguyên vật liệu. t Tính giá vật liệu nhập kho. Tính giá vật liệu về thực chất là việc xác định giá trị ghi sổ của vật liệu được tính theo giá thực tế (giá gốc), tức là vật liệu khi nhập kho hay xuất kho đều được phản ánh trên sổ sách theo đúng giá thực tế. Giá thực tế của vật liệu nhập kho được xác định tùy theo nguồn nhập. * Đối với nguyên vật liệu mua ngoài: Giá thực tế NVL nhập kho = Giá mua trên hóa đơn + Chi phí thu mua + Thuế nhập khẩu (nếu có) + Các khoản giảm trừ (nếu có) Trong đó: + Giá mua ghi trên hóa đơn của người bán là chưa tính thuế giá trị gia tăng nếu doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Nếu doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp trực tiếp thì giá mua là giá đã tính thuế giá trị gia tăng. + Chi phí thu mua: Gồm chi phí vận chuyển, bốc dỡ, tiền thuê kho, bãi, tiền công tác phí của nhân viên thu mua, các khoản hao hụt trong định mức… + Các khoản trừ gồm: Giảm giá hàng mua, chiết khấu thương mại được hưởng, hàng mua trả lại. Thuế nhập khẩu = Giá mua tại cửa khẩu Việt Nam x Thuế suất thuế nhập khẩu * Đối với nguyên vật liệu do doanh nghiệp tự gia công chế biến: Giá thực tế nguyên vật liệu nhập kho = Giá thực tế nguyên vật liệu xuất gia công chế biến + Chi phí có liên quan * Đối với nguyên vật liệu thuê ngoài gia công chế biến: Giá thực tế nguyên vật liệu nhập kho = Giá thực tế nguyên vật liệu xuất chế biến + Chi phí có liên quan Trong đó: Chi phí liên quan như chi phí thuê ngoài chế biến, chi phí vận chuyển, bốc giỡ vật liệu đi, vật liệu về. * Đối với nguyên vật liệu nhận vốn góp liên doanh hoặc cổ phần: Giá thực tế nguyên vật liệu nhập kho = Giá do các bên tham gia xác định + Chi phí tiếp nhận (nếu có) *Đối với nguyên vật liệu do nhà nước cấp hoặc cấp trên cấp hoặc được tặng: Giá thực tế nguyên vật liệu nhập kho = Giá thị trường tương đương (hoặc giá NVL ghi trên biên bản bàn giao) + Chi phí tiếp nhận (nếu có) * Đối với phế liệu thu hồi: Giá thực tế nguyên vật liệu nhập kho = Giá ước tính Trong thực tế, việc hạch toán nguyên vật liệu biến động hàng ngày theo giá thực tế hết sức khó khăn, phức tạp. Vì thế, để đơn giản hóa cho công tác hạch toán hàng ngày, kế toán có thể sử dụng giá hạch toán để ghi chép về mặt giá trị. Giá hạch toán có thể là giá kế hoạch do doanh nghiệp xây dựng hoặc một giá ổn định trong từng thời kỳ hạch toán. Sau đó, vào cuối kỳ kế toán tính ra giá thực tế của nguyên vật liệu rồi điều chỉnh giá hạch toán thành giá thực tế. t Cách tính giá vật liệu xuất kho. Vật liệu trong doanh nghiệp được thu mua nhập kho từ nhiều nguồn gốc khác nhau, do vậy giá thực tế của từng đợt nhập kho cũng không hoàn toàn giống nhau. Nên khi xuất kho, kế toán phải tính chính xác, xác định được giá thực tế xuất kho cho từng đối tượng sử dụng theo phương pháp tính giá thực tế xuất kho đã đăng ký áp dụng cho cả niên độ kế toán. Để tính trị giá thực tế của nguyên vật liệu xuất kho, các doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp sau: ü Phương pháp giá bình quân: Theo phương pháp này, giá thực tế nguyên vật liệu xuất dùng trong kỳ được tính theo giá trị bình quân. Và được tính theo công thức: Giá thực tế nguyên vật liệu xuất dùng = Số lượng nguyên vật liệu xuất dùng x Đơn giá bình quân Trong đó: Giá đơn vị bình quân có thể tính theo một trong ba cách sau: - Cách 1: Đơn giá bình quân tồn đầu kỳ = Giá thực tế tồn đầu kỳ (cuối kỳ trước) Số lượng tồn đầu kỳ (cuối kỳ trước) Phương pháp tính này đơn giản, phản ánh kịp thời tình hình biến động nguyên vật liệu trong kỳ. Tuy nhiên phương pháp này không chính xác vì không tính đến sự biến động giá cả nguyên vật liệu trong kỳ. - Cách 2: Đơn giá bình quân cả kỳ dự trữ (Bình quân gia quyền) = Giá thực tế vật liệu tồn đầu kỳ + Giá thực tế vật liệu nhập trong kỳ Số lượng vật liệu tồn đầu kỳ + Số lượng vật liệu nhập trong kỳ Phương pháp tính này có ưu điểm là đơn giản, dễ làm nhưng mức độ chính xác không cao. Hơn nữa công việc tính toán tập trung vào cuối tháng, gây ảnh hưởng đến công tác quyết toán. - Cách 3: Đơn giá bình quân sau mỗi lần nhập (Bình quân liên hoàn) = Giá trị thực tế vật tư tồn kho sau mỗi lần nhập Số lượng vật tư tồn kho sau mỗi lần nhập Phương pháp giá bình quân sau mỗi lần nhập khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp trên, vừa chính xác vừa cập nhật. Nhược điểm của phương pháp này là tốn nhiều công sức, tính toán phức tạp. ü Phương pháp nhập trước – xuất trước (FiFo): Theo phương pháp này, giả thiết rằng số vật liệu nào nhập trước thì xuất trước, xuất hết số nhập trước mới xuất đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số hàng xuất. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của nguyên vật liệu mua trước sẽ được dùng làm giá để tính giá thực tế vật liệu xuất trước và như vậy giá trị vật liệu tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số vật liệu mua vào sau cùng. - Ưu điểm: Cho phép kế toán có thể tính trị giá nguyên vật liệu xuất kho kịp thời. - Nhược điểm: Phải tính giá theo từng danh điểm nguyên vật liệu và phải hạch toán chi tiết nguyên vật liệu tồn kho theo từng loại giá nên tốn nhiều công sức. Ngoài ra, phương pháp này còn làm cho chi phí kinh doanh của doanh nghiệp không phản ánh kịp thời với giá cả thị trường của nguyên vật liệu. ü Phương pháp nhập sau – xuất trước (LiFo): Ngược lại với phương pháp nhập trước xuất trước, phương pháp này giả định vật tư nhập kho sau cùng tính đến thời điểm xuất sẽ xuất kho trước, đơn giá xuất tính đúng bằng đơn giá nhập. Do đó giá trị vật tư tồn kho cuối kỳ là giá thực tế của số vật tư mua vào đầu tiên. ü Phương pháp giá thực tế đích danh: Theo phương pháp này, căn cứ vào số lượng xuất kho và đơn giá thực tế vật liệu nhập kho của từng lần nhập xuất. Có nghĩa là vật liệu nhập kho theo đơn giá nào thì xuất kho theo đơn giá đó, không quan tâm đến nhập, xuất. Phương pháp này thường áp dụng đối với các loại vật liệu có giá trị cao, các loại vật tư đặc trưng. ü Phương pháp giá hạch toán: Theo phương pháp này, toàn bộ vật liệu biến động trong kỳ được tính theo giá hạch toán (giá kế hoạch hoặc một loại giá ổn định trong kỳ). Cuối kỳ, kế toán sẽ tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế để ghi sổ kế toán tổng hợp. Để tính được giá thực tế, trước hết phải tính hệ số giữa giá thực tế và giá hạch toán của vật tư luân chuyển trong kỳ theo công thức: Hệ số giá vật liệu = Giá thực tế vật liệu tồn đầu kỳ + G

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112582.doc
Tài liệu liên quan