Sau hơn 10 năm Luật Kế toán đi vào thực tiễn cuộc sống, những qui định trong Luật
Kế toán Việt Nam ban hành năm 2003 đã bộc lộ những bất cập trong qui định của Luật,
không phù hợp với những khuôn mẫu chung của quốc tế về kế toán, không đáp ứng được
những đòi hỏi có tính cấp bách của yêu cầu hội nhập khi Việt Nam tham gia vào các hiệp
định đối tác chiến lược với nhiều nước trên thế giới, những cam kết thực hiện công nhận lẫn
nhau trong hành nghề kế toán khu vực và quốc tế . Để đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn,
Luật Kế toán VN số 88/2015/QH13 đã được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2015
với nhiều nội dung được sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng nhiều mục tiêu đã định. Tuy nhiên,
khi nghiên cứu những nội dung cụ thể của Luật sửa đổi bổ sung này, vẫn còn một số những
vấn đề được đặt ra và cần tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của quá trình
hội nhập, tạo điều kiện pháp lí để phát triển ngành nghề dịch vụ kế toán và các doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ kế toán ở Việt Nam.
8 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 24/05/2022 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Luật kế toán Việt Nam thời kì hội nhập - Những vấn đề cần hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y chịu trách nhiệm vô hạn. Quy định này trong Luật Kế toán không hợp lí, tạo ra sự bất
bình đẳng giữa các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán, thể hiện trên các mặt sau:
- Qui định về vốn được áp đặt sai bản chất: Điều kiện về vốn được áp đặt nhằm đảm
bảo sự an toàn trong hoạt động của doanh nghiệp theo lĩnh vực kinh doanh có yêu cầu về vốn
chứ không phải theo loại hình doanh nghiệp. Luật Kế toán đã qui định có tính phân biệt giữa
các loại hình doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán về điều kiện vốn là không hợp lí.
- Về trách nhiệm đối với dịch vụ kế toán cung cấp: Điều kiện về bảo đảm tỷ lệ vốn góp
của kế toán viên hành nghề trong doanh nghiệp nhằm ràng buộc trách nhiệm của kế toán viên
hành nghề đối với doanh nghiệp, nhưng khi cung cấp dịch vụ kế toán, trách nhiệm trong hợp
đồng là trách nhiệm của doanh nghiệp, không phải trách nhiệm cá nhân.
305
- Về trách nhiệm xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của khách hàng: Yêu cầu về vốn được
đặt ra đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên để thực hiện trách nhiệm xã hội nhằm bảo
vệ lợi ích của khách hàng, đảm bảo yếu tố an toàn tài chính cho doanh nghiệp. Vậy đối với
công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, nếu không có vốn như công ty TNHH hai thành
viên trở lên nếu khi thiệt hại xảy ra thì quyền lợi của khách hàng cũng không được đảm bảo
mặc dù thuộc loại chịu trách nhiệm vô hạn. Ngoài ra, nếu một doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ kế toán cung cấp dịch vụ cho một công ty có qui mô lớn gấp nhiều lần vốn điều lệ của
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán thì việc chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn điều lệ
là không có ý nghĩa, theo đó qui định bảo đảm tỷ lệ vốn góp của kế toán viên hành nghề trong
doanh nghiệp là không phù hợp.
Theo kinh nghiệm của một số nước như Nga, Nhật bản, Armenia, Belarus, Thái Lan
đều không qui định vốn tối thiểu khi thành lập doanh nghiệp kế toán. Từ những phân tích trên
và kinh nghiệm của các nước, có thể thấy quy định này đã gây khó khăn cho các cá nhân hành
nghề, không tạo được động lực để khuyến khích các cá nhân tham gia cung cấp dịch vụ kế
toán và công khai, minh bạch. Do đó, Luật Kế toán cần đưa ra qui định đảm bảo tính bình
đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp về điều kiện này. Trên cơ sở nhận thức bản chất của
hoạt động dịch vụ kế toán là cần chú trọng đến vấn đề nhân lực là chủ yếu hơn là vấn đề về
vốn, theo đó nên thống nhất không qui định về mức vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ kế toán. Để đảm bảo chất lượng và trách nhiệm nghề nghiệp, nên thay bằng yêu cầu
kí quĩ hoặc mua bảo hiểm nghề nghiệp thì phù hợp hơn, và đây cũng kinh nghiệm của các
nước như Hàn Quốc, Trung quốc, Singapore.
Thứ ba: Qui định về điều kiện hành nghề của cá nhân cung cấp dịch vụ kế toán
Tại điều 58 của Luật Kế toán qui định một cá nhân có chứng chỉ hành nghề kế toán
muốn cung cấp dịch vụ kế toán phải đăng kí hành nghề dịch vụ kế toán và được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán. Qui định phải có Giấy chứng nhận đăng ký
hành nghề dịch vụ kế toán là không cần thiết, làm tăng các thủ tục hành chính, đi ngược lại xu
hướng cải cách thủ tục hành chính hiện nay. Bởi việc cấp chứng chỉ hành nghề kế toán đã đòi
hỏi cá nhân phải đáp ứng các yêu cầu về bằng cấp, kinh nghiệm làm việc, năng lực thực tế, tư
cách đạo đức cùng các thông tin về cá nhân..., việc đăng kí hành nghề dịch vụ kế toán dưới
hình thức hộ kinh doanh là đủ để nhà nước quản lí hoạt động và thu thuế đối với cá nhân cung
cấp dịch vụ kế toán. Như vậy, nếu kiểm soát việc kinh doanh của các cá nhân hành nghề dịch
vụ kế toán thì nhà nước đã có thể quản lí bằng hình thức Đăng kí hành nghề dịch vụ kế toán,
nếu kiểm soát về chuyên môn thì đã có thể quản lí bằng Chứng chỉ hành nghề. Bên cạnh đó,
tại khoản 3 điều 58 lại qui định “Giấy chứng nhận đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán chỉ có
giá trị khi người được cấp có hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian cho một doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ kế toán hoặc làm việc tại hộ kinh doanh dịch vụ kế toán”, điều này không
hợp lí vì đăng kí hành nghề có nghĩa là đăng kí để hoạt động kinh doanh với tư cách cá nhân,
tuy nhiên Luật lại qui định phải có hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian cho một doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán, lúc này cá nhân hoạt động với tư cách là người lao động
trong doanh nghiệp và khi hành nghề sẽ với tư cách là doanh nghiệp, không phải tư cách là cá
nhân. Mặt khác, qui định này cho thấy nếu một cá nhân khi đã được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán thì cũng có nghĩa là họ đã có đầy đủ điều kiện để hành
nghề kế toán, vấn đề đặt ra là tại sao giấy chứng nhận đăng kí hành nghề này lại chỉ có giá trị
khi người được cấp có hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian cho một doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ kế toán hoặc làm việc tại hộ kinh doanh dịch vụ kế toán (?), qui định này vừa
làm mất đi tính pháp lí của giấy chứng nhận này, vừa thiếu tính khả thi vì sẽ khó kiểm soát
được người đăng kí hành nghề dịch vụ kế toán có hợp đồng lao động với doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ kế toán khi hành nghề hay không.
306
Từ những phân tích trên, việc yêu cầu thêm một Giấy chứng nhận đăng ký hành nghề
dịch vụ kế toán sẽ không có ý nghĩa về mặt quản lí, phủ nhận giá trị của chứng chỉ hành nghề
cũng như không thể hiện được sự phối hợp của các cơ quan quản lí nhà nước trong quản lí
hoạt động của người cung cấp dịch vụ. Theo đó, Luật Kế toán nên bỏ qui định này trong qui
định về điều kiện hành nghề của cá nhân cung cấp dịch vụ kế toán.
Thứ tư: Qui định về điều kiện hành nghề của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kế toán
Tại điều 60 của Luật Kế toán qui định về điều kiện được cấp Giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh dịch vụ kế toán và điều 63 qui định về cấp lại, điều chỉnh giấy chứng nhận
này. Qui định này được xem là không cần thiết bởi theo nghị định số 56/2006/NĐ-CP thì kinh
doanh dịch vụ kế toán được xếp vào nhóm kinh doanh chỉ cần đáp ứng các điều kiện theo qui
định, không cần phải cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Đây là ngành nghề kinh
doanh được thực hiện theo qui trình và những nguyên tắc, qui định được hướng dẫn thống
nhất trên phạm vi cả nước. Mặc dù là ngành nghề kinh doanh có quan hệ mật thiết với tình
hình tài chính của mỗi đơn vị, nhưng những sai phạm trong kế toán (nếu có) thì thường phải
xuất phát từ ý chí chủ quan của những người lãnh đạo doanh nghiệp, việc kiểm tra giám sát
của cơ quan thuế, tài chính và các bên liên quan khác, không hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt
động của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kế toán. Việc siết chặt quản lí, đặt ra yêu cầu phải
được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán là không cần thiết, không
phải là cách thức nhằm đạt tới mục đích nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ kế toán, cũng
không phù hợp với chủ chương, quan điểm cải cách thủ tục hành chính để tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp hoạt động. Theo đó, không nên qui định vấn đề này trong Luật Kế toán.
Thứ năm: Qui định về điều kiện của người đại diện theo pháp luật, giám đốc hoặc
tổng giám đốc công ty
Tại điểm c, khoản 1, 2 và 3 điều 60 của Luật Kế toán qui định Người đại diện theo
pháp luật, giám đốc hoặc tổng giám đốc phải là kế toán viên hành nghề. Qui định cho các đối
tượng này nên chăng chỉ cần có chứng chỉ hành nghề kế toán là phù hợp, bởi đối với các chức
danh này thì phải đặt trọng tâm cho vấn đề về năng lực quản lí, năng lực điều hành là chủ yếu,
còn những người tham gia trực tiếp thực hiện dịch vụ kế toán mới yêu cầu phải là kế toán viên
hành nghề.
4. Kết luận:
Trên đây là những tổng kết có tính khái quát về những thay đổi căn bản trong Luật Kế
toán Việt Nam thời kì hội nhập, những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu hoàn thiện liên quan chủ
yếu đến những qui định còn chưa hợp lí, gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp
và cá nhân hành nghề kế toán. Các đề xuất mang tính định hướng nhằm góp phần hoàn thiện
qui định pháp lí về hành nghề kế toán và cung cấp dịch vụ kế toán, tạo điều kiện để thành lập
và phát triển các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kế toán, phát triển ngành nghề dịch vụ kế
toán đáp ứng yêu cầu xã hội và những đòi hỏi của quá trình hội nhập, sẵn sàng cho Việt Nam
thực hiện những cam kết công nhận lẫn nhau trong hành nghề kế toán ở phạm vi khu vực và
quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Kế toán Việt Nam số 03/2003/QH11 ban hành ngày 17/6/2003
2. Luật Kế toán Việt Nam số 88/2015/QH13 sửa đổi, bổ sung ban hành ngày 20/11/2015
3. PGS.TS Đặng Văn Thanh, Giải pháp đưa kế toán Việt Nam ngang tầm khu vực quốc
tế. www.kiemtoanasc.com.vn
4. Tài liệu hội thảo Luật Kế toán sửa đổi, Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam tổ chức
tại hà nội, ngày 27 tháng 8 năm 2015
5. Báo cáo tóm tắt kinh nghiệm các nước về một số nội dung của Luật Kế toán- Bộ Tài
chính.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luat_ke_toan_viet_nam_thoi_ki_hoi_nhap_nhung_van_de_can_hoan.pdf