Khái niệm luật kinh tế, lĩnh vực luật kinh tế ( mà ta 
quen gọi sau này là ngành luật kinh tế) đã ra đời 
trướckhi có sự hiện diện của chủ nghĩa xã hội hiện 
thực.
Trước khi nhân loại bước vào thế kỷ XX, với sự 
thống trị của tư tưởng tự do hóa kinh tế, người ta 
chưa biết đến khái niệm luật kinh tế và “ bàn tay vô 
hình” của Adam Smith là công cụ duy nhất để điều 
tiết sự vận động và phát triển của nền kinh tế. Theo 
đó Nhà nước (công quyền) là “kẻ thù” của cơ chế 
kinh tế; Nhà nước không được và không thể gây ảnh 
hưởng tới nền kinh tế.
              
                                            
                                
            
 
            
                 51 trang
51 trang | 
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luật kinh tế – Mấy kinh nghiệm và bài học từ nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬT KINH TẾ – MẤY KINH NGHIỆM VÀ 
BÀI HỌC TỪ NƯỚC NGOÀI 
 NGUYỄN NHƯ PHÁT 
PTS. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật 
I. Quan niệm về luật kinh tế 
Khái niệm luật kinh tế, lĩnh vực luật kinh tế ( mà ta 
quen gọi sau này là ngành luật kinh tế) đã ra đời 
trước khi có sự hiện diện của chủ nghĩa xã hội hiện 
thực. 
Trước khi nhân loại bước vào thế kỷ XX, với sự 
thống trị của tư tưởng tự do hóa kinh tế, người ta 
chưa biết đến khái niệm luật kinh tế và “ bàn tay vô 
hình” của Adam Smith là công cụ duy nhất để điều 
tiết sự vận động và phát triển của nền kinh tế. Theo 
đó Nhà nước (công quyền) là “kẻ thù” của cơ chế 
kinh tế; Nhà nước không được và không thể gây ảnh 
hưởng tới nền kinh tế. 
Vì vậy, cơ chế kinh tế của thời đại đó là cơ chế mà 
theo C.Mác là “ từ đầu đến ngón chân đều vấy máu”. 
Những khuyết tật, mặt trái ( hiểu theo nghĩa xã hội) 
và thiếu định hướng tổng thể là căn bệnh cố hữu của 
quy luật giá trị. Nói khác đi, bản thân cơ chế thị 
trường, hiểu theo nghĩa văn minh và nhân đạo, có 
nhu cầu cần được điều tiết. 
Theo tinh thần đó, đã đến lúc Nhà nước không thể 
đứng trên và đứng ngoài đời sống kinh tế – xã hội. 
Quyền lực Nhà nước đã xuất hiện để khắc phục 
những khuyết tật của cơ chế thị trường, để bảo vệ tư 
do cạnh tranh – động lực phát triển kinh tế, để thực 
hiện mục tiêu kinh tế của bản thân Nhà nước và giai 
cấp thống trị. Quyền lực đó được thể hiện trong pháp 
luật: Pháp luật kinh tế. Như vậy, khi thể hiện yêu cầu 
của công quyền, luật kinh tế khởi sinh trong khu vực 
luật công, thể hiện thái độ của công quyền ( Nhà 
nước) trước những diễn biến và vận động của đời 
sống kinh tế. 
Mặc dù vậy, cho đến nay, các học giả tư sản vẫn chưa 
có quan niệm thống nhất về luật kinh tế khi đi tìm 
biên giới về đối tượng điều chỉnh của lĩnh vực pháp 
luật này. 
Sự phá sản của mô hình kinh tế kế hoạch trên phạm 
vi toàn cầu[1] đã kéo theo sự cáo chung của nhiều 
quan điểm và hệ thống lý luận về quản lý kinh tế, về 
luật kinh tế truyền thống theo cách hiểu của khoa học 
pháp lý XHCN. 
Không có con đường thứ ba, tất cả các mô hình kinh 
tế kế hoạch đều phải chuyển thành kinh tế thị trường. 
Khác hẳn với mô hình kinh tế kế hoạch, kinh tế thị 
trường đòi hỏi phải xóa bỏ chế độ độc tôn của một 
hình thức sở hữu, đòi hỏi phải khuyến khích và phát 
triển một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với sự bình 
đẳng của chúng trước pháp luật. Kinh tế thị trường 
đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý đảm bảo tự 
do kinh doanh của tất cả các chủ thể sản xuất – kinh 
doanh. Đặc biệt kinh tế thị trường đòi hỏi sự lùi bước 
và nhường bước của quyền lực công cộng trước 
nguyên tắc tự do kinh doanh của các loại hình doanh 
nghiệp. 
Theo kinh nghiệm từ nước ngoài thì điều đó không 
có nghĩa rằng, nếu như luật kinh tế của nền kinh tế kế 
hoạch hóa được điều chỉnh bằng công thức của luật 
công( tức là các chủ thể chỉ được làm những gì mà 
pháp luật ghi nhận). Còn ở kinh tế thị trường luật 
kinh tế chỉ điều chỉnh theo phương pháp của luật tư ( 
tức là các chủ thể được làm tất cả những gì mà pháp 
luật không cấm). Vì vậy, nếu quan niệm rằng, luật 
kinh tế chỉ là luật tư thì sẽ không phân biệt được luật 
kinh tế với luật dân sự, thương mại và đặt biệt không 
phản ánh được trong pháp luật vai trò của công quyền 
( Nhà nước) trong đời sống kinh tế, trong quản lý 
kinh tế. Ngược lại, nếu cho rằng luật kinh tế là luật 
công thì cũng khó phân biệt được luật kinh tế với luật 
Nhà nước, luật hành chính.thực ra, luật kinh tế hay 
luật kinh doanh là những khái niệm rất rộng mà khó 
có thể định lượng chính xác về nội dung. Hiểu theo 
cách chung nhất thì luật kinh tế là tổng thể các quy 
phạm pháp luật mà với các quy phạm đó, Nhà nước 
tác động vào các tác nhân tham gia đời sống kinh tế 
và các quy phạm liên quan đến mối tương quan giữa 
sự tự do của từng cá nhân và sự điều chỉnh của Nhà 
nước. Nếu hiểu theo cách đó thì luật kinh tế tồn tại cả 
ở pháp luật công và pháp luật tư. Nó điều chỉnh một 
mặt khả năng và cách thức sự can thiệp của Nhà nước 
vào đời sống kinh tế, bảo vệ lợi ích công và mặt khác 
nó thể hiện nguyên tắc bình đẳng và bảo vệ lợi ích tư 
của các thành viên tham gia thương trường[2]. Cần 
nhấn mạnh thêm rằng, pháp luật công hay tư không 
phải là hai ngành luật, hai môn học pháp luật, mà đây 
là những khái niệm thể hiện cách thức và nguyên tắc 
xem xét những hành vi pháp lý và khả năng xử sự 
của các chủ thể pháp luật[3]. Theo đó, pháp luật công 
là lĩnh vực pháp luật mà trong sự điều chỉnh của nó 
thể hiện nguyên tắc quyền lực Nhà nước, tòng thuộc 
hay lệ thuộc của các chủ thể trong một quan hệ pháp 
luật và nhằm bảo vệ lợi ích của trật tự công cộng 
(Public order). Trong khi đó pháp luật tư là lĩnh vực 
pháp luật thể hiện sự bình đẳng và ngang quyền, tự 
do ý chí và thỏa thuận của các chủ thể và nhằm bảo 
vệ lợi ích riêng, cá biệt của các chủ thể[4]. 
Theo cách hiểu rộng về pháp luật kinh tế như trên thì 
nội dung của hệ thống pháp luật kinh tế có thể bao 
gồm những chế định pháp luật sau đây: 
1. Lĩnh vực pháp luật kinh tế công: 
- Thể chế Hiến định về kinh tế. 
- Pháp luật khuyến khích kinh tế. 
- Pháp luật điều tiết kinh tế. 
- Pháp luật cạnh tranh. 
- Pháp luật về tổ chức kinh tế. 
- Pháp luật về các ngành kinh tế. 
2. Lĩnh vực pháp luật kinh tế tư: 
- Pháp luật dân sự. 
- Pháp luật lao động. 
- Pháp luật công ty, thương mại, chứng khoán với 
tính cách là lĩnh vực pháp luật riêng của giới thương 
gia và hàng hóa đặc biệt. 
- Pháp luật về sở hữu trí tuệ. 
Như đã trình bày ở trên, việc xác định nội hàm của 
khái niệm kinh tế trên “trường quốc tế” đang là vấn 
đề nan giải và đến nay không có quan niệm thống 
nhất. Tuy nhiên, dù còn quan niệm khác nhau về luật 
kinh tế nhưng vấn đề về luật kinh tế, tư duy về luật 
kinh tế đang tồn tại ở nhiều nước khác nhau trên thế 
giới. 
Nếu ở đâu đó các nhà khoa học không hiểu luật kinh 
tế theo nghĩa rộng trên đây thì khi nói đến luật kinh 
tế, cảm nhận đầu tiên của họ đều là lĩnh vực pháp luật 
thể hiện thái độ và khả năng can thiệp (bằng pháp 
luật, theo pháp luật) của công quyền vào đời sống 
kinh tế. 
Ở Việt Nam trong mấy năm gần đây một số nhà khoa 
học pháp lý đã đề xướng một cuộc tranh luận khoa 
học xung quanh khái niệm luật kinh tế với mục đích 
nhằm khẳng định và sử dụng trong khoa học pháp lý 
khái niệm luật kinh tế, luật kinh doanh hay luật 
thương mại. Các cuộc tranh luận đó thường liên quan 
đến hai vấn đề chính là: xác định lại nội dung của hệ 
thống pháp luật trong lĩnh vực kinh tế và xem xét luật 
kinh tế, kinh doanh hay thương mại có phải là một 
ngành luật độc lập hay không? 
Chúng tôi cho rằng, nếu chỉ xuất phát từ vấn đề tên 
gọi, chúng ta còn phải tiếp tục thảo luận và khó có 
thể đi đến một kết luận thỏa đáng và thống nhất. Bởi 
lẽ: 
Thứ nhất: Việc đặt tên cho một ngành luật để xác 
định biên giới của nó với các ngành luật khác hoàn 
toàn chỉ có tính tương đối và ước lệ. 
Thứ hai: Việc ấn định lại đối tượng cho một ngành 
luật với tính cách là một bộ phận thuộc cơ cấu nội tại 
của một hệ thống pháp luật sẽ không vì thế mà thay 
đổi được chất lượng và ý nghĩa cũng như giá trị xã 
hội của hệ thống pháp luật hiện hành. 
Thứ ba: Nếu như ứng với mỗi tên gọi ở dạng khái 
niệm kể trên có thể là một nội hàm riêng biệt thì dù 
sao vẫn không có khái niệm nào mang tính đặc trưng, 
tiêu biểu và hơn hẳn. Nếu như người Nhật gọi cái đó 
là luật thương mại, người Mỹ gọi là luật kinh doanh 
và người Đức gọi là luật kinh tế thì điều đó không có 
nghĩa đơn giản là pháp luật của một trong các nước 
Nhật, nước Mỹ, nước Đức kém hiệu quả hay thậm 
chí lạc hậu. 
Quả thực, khi nghiên cứu so sánh, người ta tìm thấy 
những khái niệm khác nhau đó và thậm chí những 
khái niệm (tên gọi) đó không nhất thiết luôn luôn có 
nội dung giống nhau. Song, một số vấn đề có tính 
phương pháp luận khi tìm hiểu kinh nghiệm điều 
chỉnh pháp luật của nước ngoài là phải xem xét bản 
thân sự điều chỉnh đó trong khung cảnh của những 
điều kiện lịch sử, dân tộc, truyền thống, kinh tế, xã 
hội và triết học cụ thể và có thể riêng có ở từng quốc 
gia. Mặc khác, cũng cần xem xét cơ cấu hay cách sắp 
xếp cơ cấu của những hệ thống pháp luật mang tính 
cá biệt khác nhau mà trong đó luật kinh tế, kinh 
doanh hay thương mại tồn tại. Chúng ta đã biết đến 
sự tồn tại của những hệ thống pháp luật khác nhau 
trên thế giới như hệ Common Law, hệ Civil Law, hệ 
Hồi giáo, hệ Nhật Bản, và hệ Xã hội chủ nghĩa. 
Chúng ta cũng đã làm quen với những hệ thống pháp 
luật mà ở đó cơ cấu của nó được phân thành luật 
công và luật tư và ngược lại. 
Tóm lại, không hề tồn tại một mô hình duy nhất tối 
ưu về xác định cơ cấu và tên gọi của các bộ phận cấu 
thành của mọi hệ thống pháp luật và cũng chưa có 
một hệ thống pháp luật cá biệt nào bị coi là phá sản. 
Tuy nhiên, khi mọi sự vật, hiện tượng, đều tồn tại 
trong quá trình vận động và phát triển, khi mà điều 
đó cũng diễn ra trong cơ cấu của hệ thống pháp luật 
nước ta, khi mà luật công tách ra khỏi luật tư hay 
ngược lại, khi mà luật thương mại trở thành một 
ngành luật riêng với tính cách là phát sinh, chuyên 
biệt so với luật dân sự và kinh doanh, thuộc về chủ 
quyền của các doanh nghiệp, thương gia thì lúc đó, 
rất có thể, luật kinh tế sẽ không còn được hiểu như 
ngày hôm nay và tính chất công quyền của nó như 
khi nó ra đời sẽ là nội hàm chủ yếu của lĩnh vực pháp 
luật này. 
*** 
Cùng với quan niệm về luật kinh tế, nguồn của pháp 
luật nói chung và của luật kinh tế nói riêng cũng là 
vấn đề mà ở đó, khoa học pháp lý XHCN truyền 
thống cũng có sự khác biệt với phần còn lại của thế 
giới. 
Theo lý luận chung về Nhà nước và pháp luật XHCN 
thì nguồn của luật kinh tế là những văn bản pháp luật, 
chứa đựng những quy phạm pháp luật do các cơ quan 
Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Hệ thống pháp 
luật nước ta là hệ thống pháp luật theo trường phái 
luật quy phạm[5]. Vì vậy, các án lệ không được coi là 
nguồn luật, là khuôn mẫu xử sự chung cho các hành 
vi của các chủ thể pháp luật. Các quyết định hành 
chính, các quyết định của trọng tài kinh tế, các bản án 
của Tòa án thương mại (khi chúng ta thành lập) 
không phải là nguồn của luật kinh tế. Theo truyền 
thống, nguồn của luật kinh tế ở nước ta bao gồm các 
văn bản luật và những văn bản dưới luật. 
Tuy nhiên, xét từ thực tiễn, chúng tôi cho rằng, ta 
đang có những dấu hiệu thực tế của sự thừa nhận sơ 
khai giá trị pháp lý của những “án lệ”. Bởi lý do, 
chúng tôi cho rằng, những hướng dẫn nghiệp vụ công 
tác xét xử của các Tòa án cấp trên cũng như những 
báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án không phải là 
những văn bản quy phạm hiểu theo nghĩa truyền 
thống song lại có giá trị nhất định nào đó trong hoạt 
động áp dụng pháp luật. Mặc khác, những vụ án 
trọng điểm, thí điểm cũng nhiều khi được coi là 
“khuôn mẫu” nào đó trong công tác của Tòa án. Vì 
vậy, có thể kết luận rằng, “án lệ” có thể sẽ hình thành 
trong đời sống pháp lý ở nước ta, và nếu vậy, điều đó 
cũng không phải là không cần thiết hoặc “phi khoa 
học”. 
Trong đời sống kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực kinh 
tế đối ngoại, tập quán thương mại ngày càng có giá 
trị quan trọng. Mọi người đều biết rằng, khi chưa có 
luật thương mại (cổ điển), các thương gia đã sử dụng 
những tập quán, thói quen, thông lệ trong buôn bán – 
những “quy tắc xử sự” không thể hiện trong văn bản 
pháp luật nhưng rất có ý nghĩa thực tế trong việc ràng 
buộc các quyền và nghĩa vụ của các bên. Hơn thế 
nữa, kể cả trong điều kiện ngày nay, cách thức tổ 
chức và thực hiện các hoạt động kinh doanh, thương 
mại là hết sức năng động. Vả lại, tự do ý chí là 
nguyên tắc tối thượng của việc xác lập và thực hiện 
các quan hệ pháp lý tư. 
Vì vậy, tập quán thương mại có vị trí rất quan trọng 
trong việc bổ sung cho các quy phạm pháp luật và vì 
được các thương gia thừa nhận nên chúng có giá trị 
điều chỉnh hành vi gần như các quy phạm pháp luật. 
Ngoài ra, với tính cách là có khả năng điều chỉnh 
hành vi kinh doanh – thương mại, có thể và cần phải 
xem xét đến cả những bản điều kiện giao dịch chung 
hay điều lệ riêng của các doanh nghiệp. Những điều 
kiện chung giao hàng đó thể hiện tương đối đa dạng 
như: quy chế bán hàng, mẫu hợp đồng và thậm chí là 
trong cả điều lệ riêng của từng doanh nghiệp. Ngày 
nay, trong điều kiện của tự do kinh doanh, tự do ý 
chí, cần phải coi các điều lệ riêng của các doanh 
nghiệp cũng có giá trị pháp lý trong một chừng mực 
nào đó với các bên tham gia giao dịch pháp lý với 
doanh nghiệp vì đó là thành quả của sự tự do ý chí – 
những ý chí hình thành nên doanh nghiệp và được coi 
là “Hiến pháp” của doanh nghiệp. Để có thể có được 
giá trị pháp lý như vậy, những điều lệ cần phải có sự 
chuẩn thuận của các cơ quan đăng ký kinh doanh và 
nói chung các điều kiện chung giao hàng cần có sự 
chuẩn thuận của cơ quan Tòa án – những cơ quan mà 
thực ra có chức năng phát triển pháp luật theo cách 
thức riêng biệt. 
Liên quan đến vấn đề nguồn của luật kinh tế còn có 
vấn đề đang đặt ra trong thực tế mà cũng có ý nghĩa 
lý luận quan trọng là liệu Bộ luật dân sự và luật 
thương mại có được coi là nguồn của luật kinh tế hay 
không? 
Nếu hiểu luật kinh tế là lĩnh vực pháp luật rất rộng 
bao gồm cả luật công và luật tư thì ở phương diện 
luật tư của luật kinh tế có thể áp dụng những nguyên 
tắc chung được ghi nhận trong Bộ luật dân sự (thí dụ 
như về phần hợp đồng). Trong trường hợp này và ở 
lĩnh vực này có thể coi Bộ luật dân sự là lex general 
còn Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế được coi là lex 
special. Đây cũng là cách thức để xem xét về mối 
quan hệ giữa chế định pháp lý về hợp đồng kinh tế và 
hợp đồng thương mại liên quan đến việc áp dụng 
pháp luật. Chỉ có điều là đến nay, về phương diện tố 
tụng (lĩnh vực pháp luật công) vẫn thiếu vắng sự 
khẳng định đó nên từ phương diện pháp luật thực 
định chưa thể coi những tranh chấp từ hợp đồng 
thương mại là tranh chấp kinh tế ( theo Điều 12, Pháp 
lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, ngày 
16/3/1994) và để có được tài phán ở các Tòa kinh tế 
hay các Trung tâm trọng tài kinh tế. 
II. Mấy kinh nghiệm từ nước ngoài 
1. Về chủ thể kinh doanh 
1.1. Pháp nhân và thể nhân 
Ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển và 
hệ thống pháp luật lâu đời không có sự phân biệt và 
cách biệt giữa khái niệm thương gia và doanh nghiệp 
với tính cách là những thành viên hợp pháp của 
thương trường. Khi giao lưu trong thương trường, các 
thành viên thường quan tâm đến tính chất và đặc tính 
pháp lý của nhau mà trước hết đó là một pháp nhân 
hay thể nhân. 
Thực ra, đây là cặp phạm trù cơ bản và kinh điển 
trong pháp luật dân sự, thuộc lĩnh vực pháp luật và 
chủ thể. Song vì ở nước ta hiện nay việc nhận thức về 
chúng trong nhiều giới hạn còn lẫn lộn nên chúng tôi 
xin được bàn thêm. 
Vào những buổi ban đầu của nước Việt Nam mới, 
pháp luật đã sử dụng khái niệm pháp nhân để ám chỉ 
một loại chủ thể pháp luật được phân biệt với con 
người. Sau nhiều năm bị lãng quên thì gần đây, khái 
niệm pháp nhân lại được sử dụng trở lại trong cặp 
phạm trù pháp nhân và cá nhân. Tại Bộ luật dân sự 
chương II có sử dụng khái niệm cá nhân trong sự 
phân lập với pháp nhân và sau khi có ý kiến đóng góp 
để chỉnh lý thì dự kiến của nhà làm luật vẫn không hề 
thay đổi. 
Theo truyền thống khoa học pháp lý dân sự nói riêng 
và khoa học pháp lý nói chung chia các chủ thể của 
luật dân sự thành hai loại: pháp nhân và thể nhân. 
Mặc dù pháp nhân là một loại chủ thể không phải là 
con người, một loại chủ thể trừu tượng, không có 
hình hài song điều đó không có nghĩa là co người 
đồng nghĩa với “cá nhân”. Chẳng hạn, trong Bộ luật 
dân sự, tổ hợp tác và hộ gia đình không hưởng quy 
chế của một pháp nhân mà chúng cũng không phải là 
cá nhân. Chúng tôi cho rằng, với phương pháp tiếp 
cận như trong Bộ luật thì còn nhiều khó khăn trong 
việc hoạch định cơ cấu chủ thể của luật dân sự. 
Bộ luật dân sự phân biệt các loại chủ thể theo dấu 
hiệu pháp nhân và cá nhân nên đương nhiên phải đi 
tìm thêm những chủ thể pháp luật khác để liệt kê 
trong bộ luật mà điển hình là hộ gia đình và tổ hợp 
tác – những chủ thể pháp lý không phải là cá nhân mà 
cũng không hưởng quy chế của một pháp nhân. Nếu 
cứ theo cách như vậy thì chưa cần phải dự tính đến sự 
phát triển của kinh tế – xã hội mà ngay hiện nay bộ 
luật đã không thể liệt kê hết. Đó là những cộng đồng 
người phải sinh ra một chủ thể pháp luật mới nhưng 
không có tư cách pháp nhân thông qua sự liên kết 
trên cơ sở của những sự kiện pháp lý. Ngay trong đời 
sống kinh tế pháp luật của ta đã không chỉ đề cập đến 
hộ gia đình hoặc tổ hợp tác. Các tổ chức liên kết kinh 
tế không nằm trong khái niệm tổ hợp tác “ nhóm kinh 
doanh” theo nghị định 66 – HĐBT ngày 23/3/1992 
không phải là cá nhân mà cũng chẳng là pháp nhân. 
Mặc khác, hiện nay trong xã hội đã có không ít các tổ 
chức được thành lập theo nguyên tắc hiệp hội mà 
không đủ điều kiện trở thành pháp nhân. Thậm chí, 
những doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích có 
hưởng quy chế đầy đủ của một pháp nhân hay không: 
vấn đề này vẫn còn phải được giải quyết cụ thể thông 
qua hoạt động hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp 
Nhà nước. 
Trong lịch sử, đã có thời kỳ pháp luật chưa hề biết 
đến khái niệm pháp nhân. Từ thời cổ đại đến thời 
phong kiến đã xuất hiện những phường hội, những tổ 
chức hình thành trên cơ sở hợp tác, liên kết. Khi tham 
gia các quan hệ pháp luậ (mà ngày nay ta gọi là quan 
hệ dân sự) các tổ chức này không nhân danh chính 
mình mà nhân danh các thành viên, nhân danh các 
chủ sở hữu của các tài sản được đưa vào sử dụng. 
Như vậy, các tổ chức này không có tư cách pháp 
nhân độc lập trong việc sử dụng và định đoạt những 
tài sản khi nó buộc phải thành phương tiện để thực 
hiện các quan hệ dân sự, thương mại. Điều đó có 
nghĩa rằng, về mặt pháp lý, không có sự phân biệt và 
tách bạch giữa tài sản được đưa vào tổ chức và phần 
tài sản còn lại mà cả hai đều thuộc sở hữu của cùng 
một chủ. Vì hoạt động nhân danh chủ hữu nên khi tổ 
chức này vỡ nợ, các quan toàn cùng với chủ nợ được 
phép đến gõ cửa nhà riêng từng con nợ. 
Song, khi sản xuất hàng hóa phát triển trong điều 
kiện của chủ nghĩa tư bản, vấn đề cũng cố địa vị của 
các tổ chức kinh tế bằng phương tiện pháp lý để các 
tổ chức này tham gia độc lập vào các quan hệ dân sự 
– thương mại là nhu cầu cấp thiết đối với các lọai 
hình tổ chức khác nhau và cũng là phương tiện, điều 
kiện để các nhà tư bản cạnh tranh với nhau trong cơ 
chế thị trường. Để xác định tư cách pháp lý độc lập 
cho các tổ chức này, và tránh rủi ro trong kinh doanh 
cũng như giới hạn những hậu quả khủng khiếp của sự 
đổ vở trong các tổ chức; thực tiễn của hoạt động dân 
sự – thương mại đòi hỏi phải tạo ra một khả năng về 
sự tách bạch về tài sản giữa phần đưa vào lưu thông 
và phần còn lại mà chủ sở hữu có nhu cầu sử dụng 
vào những mục đích khác. 
Khi thực hiện nguyên tắc tách bạch về tài sản cũng là 
khi xuất hiện một nhân cách pháp lý mới, tách bạch 
với nhân cách pháp lý của chủ sở hữu hoặc công 
đồng sở hữu. Để đặt tên cho nhân cách pháp lý mới 
đó, khái niệm pháp nhân đã ra đời[6]. 
Như vậy với mục đích như trên, khái niệm pháp nhân 
không liên quan đến vấn đề cá nhân hay tập thể; số ít 
hay số nhiều của những con người. Nói như vậy là vì 
đã có lúc khoa học pháp lý của ta nhầm tưởng rằng 
“tổ chức” hay “tập thể” là dấu hiệu của pháp nhân 
cũng như cho rằng các đơn vị kinh tế quốc doanh 
dưới thời kế hoạch hóa cũng có tư cách pháp nhân. 
Đành rằng, pháp nhân “không phải” là người, song 
không phải mọi tổ chức đều là pháp nhân. Như đã 
trình bày ở trên, mục đích của việc xác lập tư cách 
pháp nhân là việc tách biệt tài sản. Cho nên chỉ có 
những tổ chức thực hiện nguyên tắc tách bạch về mặt 
tài sản mới có được điều kiện quan trọng đầu tiên để 
trở thành pháp nhân. 
Ý tưởng về tách bạch tài sản nhằm xác định tư cách 
độc lập về mặt pháp lý cho một tổ chức được gọi là 
pháp nhân còn dẫn đến một hậu quả pháp lý dân sự 
nữa là khẳng định tính chất trách nhiệm hữu hạn của 
loại tổ chức này khi tham gia các quan hệ tài sản. 
Chính vì lẽ đó mà các xí nghiệp công nghiệp quốc 
doanh thời kế hoạch hóa trên thực tế chưa hề tồn tại 
thực sự như một pháp nhân, vì chúng không có tài 
sản riêng, tồn tại độc lập với toàn bộ phần còn lại 
thuộc sở hữu Nhà nước và chúng không thực hiện 
chế độ trách nhiệm hữu hạn. Điều này là dễ hiểu bởi 
vì, kinh tế chính trị học thời đó dạy rằng tài sản thuộc 
sở hữu toàn dân (Nhà nước) là một thể thống nhất, 
không thể phân chia. Cho nên để các doanh nghiệp 
Nhà nước có thể tồn tại như một pháp nhân trong cơ 
chế mới, Nhà nước đã thực hiện việc trao vốn và 
trách nhiệm bảo toàn vốn và xác lập tính độc lập về 
mắt pháp lý và kinh tế cho loại chủ thể này. 
Cũng vì thế mà gần đây khoa học pháp lý nói chung 
và pháp lý dân sự nói riêng vẫn chưa có một định 
nghĩa thống nhất về khái niệm hay dấu hiệu của pháp 
nhân; song ngày càng thấy có nhiều tiêu chí để xác 
định pháp nhân đã được xác định trước đây, nay 
không còn giá trị và ngay Điều 94 của Bộ luật Dân sự 
cũng còn tỏ ra mơ hồ khi xác định các dấu hiệu của 
pháp nhân. 
Đã có thời kỳ khoa học pháp lý ấn định dấu hiệu của 
pháp nhân là tài khoản ở ngân hàng và con dấu. Điều 
này có thể hiểu được trong điều kiện của cơ chế cũ 
bởi lẽ khi đó chỉ có các đơn vị kinh tế xã hội chủ 
nghĩa và các cơ quan, đơn vị thuộc Nhà nước mới 
được phép có tài khoản và con dấu riêng. Ngày nay 
các cá nhân cũng có thể có tài khoản tại ngân hàng và 
không ít các đơn vị, tổ chức không có tư cách pháp 
nhân cũng có con dấu. 
Điều 94 của Bộ luật dân sự lại đi tìm dấu hiệu “có cơ 
cấu tổ chức” để xác định pháp nhân. Chúng tôi cho 
rằng, dấu hiệu này không đặc trưng vì đã là đơn vị, tổ 
chức đều có thể có cơ cấu tổ chức riêng, song như 
trên đã trình bày, không phải mọi tổ chức, đơn vị đều 
là pháp nhân. 
Tuy nhiên, Bộ luật dân sự đã đề cập đến bốn lọai chủ 
thể các quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: cá nhân, 
pháp nhân, tổ hợp tác và hộ gia đình. 
Pháp nhân là một khái niệm được sử dụng để ám chỉ 
một loại chủ thể pháp lý độc lập, để phân biệt với các 
chủ thể là con người (bao gồm cá nhân và tập thể 
người). Như vậy, pháp nhân là một thực thể trừu 
tượng, được hư cấu, thể hiện tình trạng tách bạch về 
mặt tài sản của nó với tài sản còn lại của chủ sở hữu, 
người đã sáng tạo ra nó. Trong kinh doanh, người 
sáng tạo ra pháp nhân, hiểu theo nghĩa này, là chủ sở 
hữu doanh nghiệp – người đầu tư vốn để thành lập 
doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Nếu coi doanh 
nghiệp Nhà nước là pháp nhân (hay có tư cách pháp 
nhân) nghĩa là toàn bộ vốn tài sản mà Nhà nước đã 
giao cho doanh nghiệp, là của doanh nghiệp. Chúng 
tồn tại tách bạch và độc lập về mặt pháp lý với toàn 
bộ tài sản khác thuộc sở hữu toàn dân. Vì lẽ đó, khi 
thành lập các doanh nghiệp (theo nghị định 388 – 
HĐBT ngày 20/1/1991) và khi thành lập mới doanh 
nghiệp Nhà nước (theo luật doanh nghiệp Nhà nước 
ngày 20/4/1996) đều có thủ tục giao và nhận vốn. 
Cũng vì không có tài sản tách bạch nên trước đây các 
xí nghiệp công nghiệp quốc doanh của ta chưa bao 
giờ tồn tại thực sự là những pháp nhân. 
Trong trường hợp của công ty, điều này cũng có bản 
chất pháp lý như vậy. Cụ thể, khi thành lập công ty, 
các thành viên góp đủ số vốn đăng ký vào công ty thì 
phần vốn này thuộc công ty và tồn tại tách bạch với 
toàn bộ tài sản còn lại thuộc sở hữu của thành viên 
công ty. 
Với tư cách thiết kế về pháp lý như vậy, suy cho cùng 
chỉ nhằm mục đích là để các tổ chức kinh tế có tư 
cách pháp nhân hưởng quy chế trách nhiệm hữu hạn 
mà thôi. Nói khác đi, pháp nhân không phải là khái 
niệm nhằm khẳng định tính độc lập về pháp lý của 
mọi loại chủ thể kinh doanh hay thương gia. Theo lẽ 
đó, pháp luật nước ta (mà trước hết là pháp luật kinh 
tế – dân sự) cũng như pháp luật của mọi quốc gia trên 
thế giới đều coi pháp nhân là một thực thể pháp lý: 
1) Được thành lập hay thừa nhận một cách hợp pháp. 
2) Có tài sản riêng. 
3) Tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình 
bằng số tài sản riêng đó. 
4) Là nguyên đơn hay bị đơn trước các cơ quan tài 
phán. 
Trong đó dấu hiệu hai và ba là thuộc tính riêng của 
pháp nhân. 
Bên cạnh pháp nhân còn một chủ thể pháp luật nữa, 
cũng là một thực thể pháp lý độc lập về tư cách chủ 
thể. Song ở đó, không có sự tách bạch về tài sản giữa 
phần của thực thể đó và của chủ sở của nó. Vì vậy, ở 
dây khi xem xét tính chất về chế độ trách nhiệm về 
mặt tài sản trong kinh doanh thì chính thực thể pháp 
lý đó và cùng với chủ sở hữu của nó (các cá nhân và 
tổ chức góp vốn) cùng liên đới chịu trách nhiệm vô 
hạn về các khoản nợ của thực thể pháp lý đó. 
Như vậy, “đứng ra chịu trách nhiệm về mặt tài sản ở 
đây trên thực tế có thể là cá nhân, là tập thể các cá 
nhân hay thậm 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 16_516.pdf 16_516.pdf