Nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng đi đến nhận thức vai trò, trách nhiệm của cá nhân đối với xã hội như thế nào

Phạm trù là khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định. Mỗi bộ môn khoa học đều có phạm trù riêng của mình. Đối với phép duy vật biện chứng các phạm trù của nó là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực. Việc nắm vững mối quan hệ qua lại biện chứng giữa các cặp phạm trù có thể vận dụng chúng một cách tự giác trong hoạt động của mình trở thành cần thiết cho tất cả mọi người. Trong khuôn khổ một bài tiểu luận, tôi xin trình bày các phạm trù "cái riêng","cái chung" vì sự nhận thức sự vật thường bắt đầu từ đó.

 Theo Lênin, "cái riêng" là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Cần phân biệt "cái riêng" với "cái đơn nhất"."Cái đơn nhất" là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính.chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật chất nào khác.

 

docx5 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 1150 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng đi đến nhận thức vai trò, trách nhiệm của cá nhân đối với xã hội như thế nào, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG, CÁI RIÊNG ĐI ĐẾN NHẬN THỨC VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI XÃ HỘI NHƯ THẾ NÀO I .NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẶP PHẠM TRÙ CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG. 1. Khái niệm về cặp phạm trù cơ bản của triết học-cái riêng và cái chung: Phạm trù là khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định. Mỗi bộ môn khoa học đều có phạm trù riêng của mình. Đối với phép duy vật biện chứng các phạm trù của nó là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực. Việc nắm vững mối quan hệ qua lại biện chứng giữa các cặp phạm trù có thể vận dụng chúng một cách tự giác trong hoạt động của mình trở thành cần thiết cho tất cả mọi người. Trong khuôn khổ một bài tiểu luận, tôi xin trình bày các phạm trù "cái riêng","cái chung" vì sự nhận thức sự vật thường bắt đầu từ đó. Theo Lênin, "cái riêng" là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Cần phân biệt "cái riêng" với "cái đơn nhất"."Cái đơn nhất" là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính...chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật chất nào khác. "Cái chung" là phạm trù được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Vậy giữa "cái chung" và cái riêng có mối quan hệ với nhau như thế nào? Mối quan hệ ấy đã được chủ nghĩa duy vật biện chứng phân tích rất khoa học. 2. Mối liên hệ biện chứng giữa "cái riêng" và "cái chung" : Cái chung chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua cái riêng. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình, không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng, cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung, sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung. Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lại cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định. Nói chung việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng không hề đơn giản, Lenin đã cho rằng: “Con người bị rối lên chính là ở trong phép biện chứng của cái riêng và cái chung.” — Lenin — 3. ý nghĩa phương pháp luận về mối quan hệ giữa "cái riêng" và "cái chung": Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, Triết học Mác-Lenin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan hệ này để ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là: Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình, nên chỉ. Nếu không sẽ rơi vào sai lầm của người tả khuynh, giáo điều. Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến "cái đơn nhất", sẽ rơi vào sai lầm của người hữu khuynh, xét lại. Để giải quyết những vấn đề riêng một cách có hiệu quả phải giải quyết những vấn đề chung- những vấn đề lý luận liên quan với các vấn đề riêng đó. Nếu không, sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa. Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng. Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định "cái đơn nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược lại "cái chung" có thể biến thành "cái đơn nhất", nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để "cái đơn nhất" có lợi cho con người trở thành "cái chung" và "cái chung" bất lợi trở thành "cái đơn nhất". 4. Liên hệ vai trò trách nhiệm cá nhân với xã hội: Cái riêng nằm trong cái chung, cái chung bao hàm cái riêng .Chúng ta sanh ra là cái riêng nằm trong cái chung, chịu sự tác động của các yếu tố quan hệ xã hội, đạo đức xã hội quy đinh chúng ta, những thay đổi của xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến chúng ta, bản thân mỗi cá nhân là thành phần của xã hội chịu sự tác động của xã hội và tác động lại xã hội. Chúng ta cấu tạo, tác động nên nó, đó là cấu trúc hai chiều tác động qua lại. Xét về mối quan hệ giữa bản thân với, ta thấy cái riêng là cá nhân, cái chung là xã hội. Con người tồn tại qua những các nhân người, mỗi cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác với những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, chình độ, Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành, những các nhân này sống và hoạt động trong nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện lịch sử quy định. Trong quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ với xã hội, các nhân biểu hiện ra với tư cách như sau: Cá nhân là phương thức tồn tại của loài người. Không có con người nói chung, loài người tồn tại độc lập. Cá nhân là cá thể riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội, là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách. Cá nhân được hình thành và phát triển trong quan hệ xã hội. Giữa cá nhân và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau, chuyển hóa lẫn nhau giữa cái chung và cái riêng. Mác cho rằng “Chỉ có trong tập thể mới có những phương tiện làm cho mỗi cá nhân có khả năng phát triển toàn diện những năng khiếu của mình chỉ có trong tập thể mới có tự do cá nhân.” Mỗi các nhân trong một tập thể phải biết phát huy điểm mạnh của mình. Biến cái đơn nhất có lợi thành cái chung, biến cái chung bất lợi thành cái đơn nhất. Khi làm bất cứ một vấn đề gì cũng phải xem xét giải quyết vấn đề sao cho hợp lya nhất. Có như thế thì con đường đi đến thành công của bạn mới dễ dàng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxnghien_cu_u_quan_he_bie_n_chu_ng_giu_a_ca_i_chung_ca_i_rieng_di_de_n_nha_n_thu_c_vai_tro_tra_ch_nhie.docx
Tài liệu liên quan