Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ  335
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP LOÉT MÔNG TRÊN BỆNH NHÂN  
ĐàPHẪU THUẬT BẮC CẦU ĐỘNG MẠCH 
Cao Thị Thu Hằng*, Nguyễn Anh Tuấn*,Vũ Hữu Thịnh*, Đỗ Quang Khải*, Cái Hữu Ngọc Thảo Trang* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Loét tì đè là một biến chứng nặng, hay gặp ở các bệnh nhân bị bệnh nặng nằm lâu ngày. Mặc dù 
có nhiều phương pháp điều trị và dự phòng loét do tì đè nhưng không phải lúc nào cũng mang lại hiệu qủa. Các 
Phẫu thuật viên tạo hình đã nghiên cứu nhiều phương pháp để che phủ các vết loét như: vạt da ‐ cơ, vạt da ‐ cân, 
ghép da. Mỗi phương pháp có những ưu điểm và nhược điểm riêng, sự lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp 
tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của mỗi Phẫu thuật viên. 
Mục tiêu: Tác giả trình bày 1 trường hợp loét mông trên bệnh nhân đã phẫu thuật bắc cầu động mạch tại 
Khoa Tạo hình ‐ Thẩm mỹ bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM. 
Đối tượng ‐ Phương pháp: Trình bày ca lâm sàng bệnh nhân bị loét mông sau phẫu thuật bắc cầu động 
mạch chủ ‐ đùi 2 bên ở trên bệnh nhân tiểu đường type II, cao huyết áp, theo dõi nhồi máu cầu não (T) sau mổ, 
được phẫu thuật che phủ khuyết hổng bằng vạt da trượt V‐Y vùng đùi mông cùng bên. 
Kết luận: (1) Dự phòng và săn sóc cho những bệnh nhân có nguy cơ loét là việc làm cần thiết đầu tiên. Mặc 
dù có nhiều có nhiều tiến bộ trong kỹ thuật điều trị loét bằng các vạt da, cơ nhưng không bao giờ được xem nhẹ 
các nguyên  tắc dự phòng  loét bằng việc phối hợp dinh dưỡng,  thuốc men, vật  lý  liệu pháp,  thay  đổi  tư  thế 
thường xuyên, tình thương của gia đình và xã hội mới có thể dự phòng và không để loét tái phát. (2) Khi đã bị 
loèt tỳ đè cần phải có thái độ tích cực không nên bàng quan, thất vọng xảy ra cho bệnh nhân, gia đình và cả một 
số nhân viên Y tế. Khi có chỉ định mổ cần được can thiệp sớm tại cơ sở chuyên khoa nhưng Bn cần được sự chăm 
sóc của nhiều chuyên khoa mới có được tình trạng cho phép điều trị. (3) Kết quả điều trị trên bệnh này hiện tại 
rất tốt, kết quả tái khám lần 1 (sau xuất viện 1 tuần) vết thương lành tốt, và Bn vẫn đang được tiếp tục tái khám 
theo dõi. Thành công này là công sức của tập thể khoa đã theo dõi sát bệnh nhân, thái độ xử trí tích cực, và sự 
phối hợp điều trị tốt, hài hòa với các chuyên khoa bạn. 
Từ khoá: loét tì đè, loét mông, vạt V‐ Y 
ABSTRACT 
BUTTOCK ULCER AFTER ARTERY BYPASS SURGERY: ONE CASE REPORT 
Cao Thi Thu Hang, Nguyen Anh Tuan, Vu Huu Thinh, Do Quang Khai, Cai Huu Ngoc Thao Trang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 335 ‐ 338 
Background: Pressure  sores  is  the  severe  complication,  this  is  common  on  patients with  serious,  time‐
consuming  illness. Although  there are many medicines and equipment  for  treatment and prevention pressure 
sores,  but  they  are  not  surely  effective.  The  plastic  surgeons  study  many  methods  for  closure  of  wound: 
Musculocutaneous  flaps, Fasciocutaneous  flaps, Skin  grafts. Each method  has  advantages  and  disadvantages 
itself, planning a surgical strategy depend on experience of the surgeon. 
Objective:  The  authors  presented  one  case  of  buttock  ulcer  after  aortic  bifemoral  bypass  surgery  was 
consulted and treated at the University Medical Center of HoChiMinh city 
Method: Case report. We report a case of buttock ulcer after aortic bifemoral bypass surgery, diabetic type II, 
* Bộ môn PT TH‐TM ĐHYD TP. HCM và khoa TH‐TM BV ĐHYD 
Tác giả liên lạc: BS Cao Thị Thu Hằng ĐT: 0918 343 506 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 336
hypertensive, doubt cerebral infarction patient. 
Results: After Treating stage IV pressure ulcers with negative pressure therapy (vacuum‐assisted closure 
device: V.A.C.) and use V‐Y buttock‐thigh skin  flap  for closure of wound. Those procedures give good 
result. 
Conclusion:  (1) Prevention and care for patients at risk of ulceration is the first essential. Although there 
are many technical advances  in the treatment of ulcers of the musculocutaneous  flap, but the ulcer prevention 
guidelines is important with a combination of nutrition, medication, physical therapy, change posture regularly, 
love from family and society can to prevent and to avoid ulcer recurrence. (2) When pressed with pressure ulcers 
should have a positive attitude should not  indifference,  frustration occurs  for patients,  families and even some 
health care workers. Patients need surgery at the right time and with multidisciplinary cooperates. (3) The results 
of treatment for this patient is very good at this time. This success is the collective effort of the Department has 
closely monitored patients, positive behavior management, good coordination and treatment, harmony with the 
other specialty. 
Keywords: pressure sore, buttock ulcer. 
MỞ ĐẦU 
Loét tỳ đè vùng cùng cụt và vùng mông là 
biến  chứng  nặng  nề,  thường  gặp  ở  những 
bệnh nhân phải nằm dài ngày  : mắc bệnh nội 
khoa nặng,  chấn  thương  cột  sống  liệt  tủy,  tai 
biến mạch não, gãy cổ xương đùi. 
Mặc  dù  đã  có  nhiều  tác  giả  trên  thế  giới 
nghiên cứu tạo ra thuốc men và các dụng cụ hỗ 
trợ  để phòng ngừa  và  điều  trị  loét  tỳ  đè. Tuy 
nhiên cho đến nay vẫn chưa có biện pháp nào tỏ 
ra có hiệu quả chắc chắn. Và nhiều phẫu  thuật 
viên  tạo  hình  nghiên  cứu  sâu  các  biện  pháp 
nhằm mục đích che phủ ổ loét như xoay vạt da, 
xoay vạt da cơ ở vung kế cận. Mỗi phương pháp 
đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, việc lựa 
chọn  vạt  tùy  thuộc  vào  kinh  nghiệm  và  tùy 
trường hợp cụ thể. 
Xin trình bày một ca lóet mông ở Bn sau mổ 
bắc  cầuđộng mạch  chủ‐  đùi  2  bên,Tiểu  đường 
type II, Cao huyết áp, theo dõi nhồi máu cầu não 
(T) sau mổ, được PT che phủ khuyết hổng bằng 
vạt da trượt V‐Y vùng đùi mông cùng bên. 
Bệnh án 
‐ T. V. U., sinh 1942, nam. 
‐ Lý do nv: đau chân T. 
‐ Nv: 17‐6‐2013, điều trị ngoại trú. 
‐ Chẩn đoán lúc nhập viện: thuyên tắc và huyết 
khối động mạch (tắc động mạch chân 2 bên). 
‐ Bệnh sử: BN đau cách hồi 2 năm, hiện  tại 
đau cách hồi khi đi khoảng #20m. 
‐ Triệu chứng: hút thuốc lá, CHA, không rõ 
tiểu đường type II. 
‐ Khám lúc nhập viện: 
Thể trạng khá, cao 1m67, cân nặng 47kg. 
Khám  các  cơ  quan:  tim,  thận,  tiêu  hóa,  hô 
hấp không phát hiện bất thường. 
Khám hệ mạch máu: 
Mạch đùi T (‐). 
Mạch  đùi P bắt  rất yếu, mạch khoeo P  (‐), 
chày trước và mu P (‐). 
Bụng có túi phình đập theo nhịp tim. 
‐  Được phẫu  thuật:  bắc  cầu  chủ  đùi  2  bên 
(31‐7‐2013). 
Chẩn  đoán  trước  +  sau  mổ:  Phình  động 
mạch chủ bụng+ tắc động mạch chậu 2 bên/ TĐ 
type 2. 
Diễn tiến sau mổ: 
‐  HP1  (sau  2g  chuyển  HP):  chân  P 
đau+lạnh+nổi bông.  : thiếu máu cấp sau PT bắc 
cầu.  BN  được mổ  lần  2:  bắc  thêm  cầu  đùi  – 
khoeo (P) trên gối.  
‐ HP3: BN nói nhảm, bứt rứt, gọi biết. 
‐ HP6: H/c Nội TK  T/d  loạn  thần cấp sau 
mổ  ( ≠:  TBMMN  b/c  T). Kq CT  scan  não:  t/d 
nhồi máu cầu não T‐ TĐ type2‐ THA. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ  337
‐ HP9: Bn  lơ mơ, G:12‐13đ,  đùi P  sưng nề, 
nổi  bóng  nước,  ấn  đau,  chân  hồng  ấm.  men 
CPK, SGOT, SGPT tăng cao (BUN, creatinin, ion 
đồ: BT).  :t/d H/c nhiễm độc,  tắc  tưới máu  sau 
PT bypass 2 lần. 
‐ Hp11: khoa TH‐TM được mời khám do Bn 
có vết  loét mông P do nằm  lâu. Hướng xử  trí: 
xoay trở mỗi 90’, nằm nệm nước, cắt lọc VT đặt 
máy  VAC(HP14)  áp  lực50‐  120mmHg,  dịch 
vàng bẩn 10‐20mml/ngày. 
‐ Cắt lọc 2 lần (đặc biệt lần 2, Hp24): khi cắt 
lọc mô hoại  tử  thấy  lộ xương cùng + hoại  tử 1 
phần cơ mông lớn tạo thành hốc dưới da. 
‐ Số lần thay VAC: 3 lần.  
‐  PT  che  phủ  khuyết  hổng(20x15cm)  bằng 
vạt trượt V‐Y da đùi –mông cùng bên (Hp42). 
‐ Vạt da trượt hơi bị thiếu máu vùng đầu xa 
khoảng 4cm2. 
‐ Được thay băng hằng ngày và đắp Aquacel 
Ag→  được  đặt  lại máy VAC vùng  đầu xa  của 
vạt, thời gian đặt: 10 ngày,để rút dịch xuất tiết ở 
đầu  vạt  thiếu máu.Ngày  2/10 ngưng máy hút, 
tiếp tục thay băng+ đắp gạc Aquacel Ag đầu xa 
vết  thương.  Xuất  viện  ngày  17/10vết mổ  khô 
lành tốt. 
Bn sốt dao động kéo dài  từ  sau mổbắc cầu 
ĐM 37‐390C đến 3 ngày trước xuất viện  
‐Xuất  viện  ngày  17/10:  vết  thương  khô, 
lành tốt. 
‐Tái  khám  lần  1(sau  xuất  viện  1  tuần):  vết 
thương lành tốt. 
Cận lâm sàng 
Glycemia: dao động từ263‐ 91mg/dl. 
Cay mau (am tinh) ngay 3/10. 
(2/8,HP3):BC:  19.500  HC:  2tr6,  Hct:24,9 
Hb:8,6, truyen 2dv HCL. 
(1/10,  sau  PT  chuyển  vạt  da):  HC  2tr4, 
Hb:7,53g/dl Hct: 22,8%, BC: 11.500/mm3,  truyền 
05 đv HCL. 
Cấy dịch vết thương: (23/8) Streptococcie + E. 
coli +Acinetobacter baumannii. 
(17/6) (trước mổ) Protein: 7,6g/dl, alb: 4,1g/dl 
(trong giới hạn bình thường). 
Các XN khác trong giới hạn bình thường. 
‐Thuốc  sau mổ  từ  lúc bắc  cầu  ĐM  đến  lúc 
xuất viện: 
KS: Vancomycine, Tienam x20 ngày. 
Empixin x17 ngày. 
Unasyn x17 ngày. 
Augmentin x 8 ngày. 
ASpergic, lovenox, plavix. 
Insulin. 
Bù đạm, truyền máu(tổng 7 đv HCL). 
BÀN LUẬN 
Sơ đồ các vị trí dễ bị loét do tì đè 
‐Thông thường loét do nằm thường xảy ra ở 
những Bn bị suy nhược cơ thể, liệt và phải nằm 
tại giường lâu, liên quan đến lóet và hoại tử mô 
do áp lực đè ép kéo dài trên thành mạch và thần 
kinh, làm tổn thương tuần hoàn tại chỗ và do rối 
loạn dinh dưỡng. Ở Bn này có bệnh cảnh nặng, 
phải nằm tại giường dài ngày 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 338
‐Loét  do  nằm  thường  xảy  ra  ở  vùng  cùng 
cụt: mô mềm dưới da ít và trên nền xương cứng, 
ở vùng mông xảy ra ít hơn. 
‐Trên bệnh cảnh BN có tắc ĐM đùi do mảng 
xơ vữa + t/d tắc mạch não (T) sau mổ, trong khi 
mổ cắt  lọc mô hoại  tử vùng mông để đặt máy 
V.A.C, thấy hoại tử một phần cơ mông lớn (hoại 
tử cơ mông  lớn  thường  ít gặp  trong bệnh cảnh 
loét cùng cụt hay loét mông do tì đè), cảm nghĩ 
có  thể vừa bị áp  lực  tì  đè  liên  tục do nằm  lâu 
cộng với mảng xơ vữa di chuyển gây thuyên tắc 
động mạch não và  thuyên  tắc 1 nhánh  tận của 
ĐM mông  lớn hay không  ?  làm vùng da và  1 
phần cơ mông lớn bị hoại tử, loét. 
Vị  trí  xoay  vạt  để  che khuyết hổng  vùng 
cùng cụt và vùng mông 
Ở Bn này, phải cân nhắc việc chọn lựa vạt và 
phương pháp vô  cảm, vì BN  suy kiệt do bệnh 
nặng, nên không nên dùng các vạt vùng hông, 
lưng kế cận vì không đủ độ dày để che phủ vết 
thương rộng và sâu, cũng không nên dùng vạt 
da cơ mông lớn để che khuyết hổng vì sẽ là cuộc 
mổ lớn,phải gây mê. Vì vậy chúng tôi chọn cách 
dùng vạt da  trượt V‐Y đùi mông cùng bên, chỉ 
cần gây tê tại chỗ. 
KẾT LUẬN 
‐ Dự  phòng  và  săn  sóc  cho  những  BN  có 
nguy cơ loét là việc làm cần thiết đầu tiên. Mặc 
dù có nhiều có nhiều tiến bộ trong kỹ thuật điều 
trị loét bằng các vạt da, cơ nhưng không bao giờ 
được  xem  nhẹ  các  nguyên  tắc  dự  phòng  loét 
bằng việc phối hợp dinh dưỡng, thuốc men, vật 
lý liệu pháp, thay đổi tư thế thường xuyên, tình 
thương  của  gia  đình  và  xã  hội mới  có  thể dự 
phòng và không để loét tái phát. 
‐ Khi đã bị loèt tỳ đè cần phải có thái độ tích 
cực không nên bàng quan, thất vọng xảy ra cho 
BN, gia đình và cả một số nhân viên Y tế. Khi có 
chỉ  định mổ  cần  được  can  thiệp  sớm  tại  cơ  sở 
chuyên khoa nhưng Bn  cần  được  sự  chăm  sóc 
của nhiều chuyên khoa mới có được  tình  trạng 
cho phép điều trị. 
‐ Kết quả điều trị trên Bn này hiện tại rất tốt, 
kết quả tái khám lần 1 (sau xuất viện 1 tuần) vết 
thương  lành  tốt, và Bn vẫn đang được  tiếp  tục 
tái khám  theo dõi. Thành công này  là công sức 
của tập thể khoa đã theo dõi sát BN, thái độ xử 
trí tích cực, và sự phối hợp điều trị tốt, hài hòa 
với các chuyên khoa bạn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bauer  JD,  Mancoll  JS,  andPhillips  LG  (2006).  Grabb  and 
Smith’s Plastic Surgery, Sixth Edition, Pressure sores, Chapter 
74. pages 722‐729. 
2. Đinh văn Thủy. Loét tì đè vùng cùng cụt. Tạp chí y học 2009. 
3. Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Mạnh đôn, Trần Ngọc Lĩnh, Vũ 
Hữu Thịnh. Điều trị vết loét mạn tính vùng cùng cụt tại bệnh 
viện Đại học Y Dược. Y học TP.Hồ Chí Minh, tập 15, phụ bản 
của so 1, 2011.HỒ CHÍ MI 
4. Treatment of Pressure Ulcers. Clinical Practice Guideline of 
U.S  Department  of  Health  and  Human  Services.  AHCPR 
Publication, number 15, 1994. 
Ngày nhận bài báo: 14/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014