Những bệnh nhân có khuyết tật thần kinh (KTTK) có
những nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt. Do những bệnh nhân
này có cấu tạo cơ thể, trương lực cơ và mức độ hoạt động
khác với những bệnh nhi thông thường, những tiêu chuẩn
dinh dưỡng sử dụng cho trẻ em bình thường không thể áp
dụng hoàn toàn cho các bệnh nhân KTTK. Ngoài ra, việc
đánh giá chính xác tình trạng dinh dưỡng là không dễ dàng,
đặc biệt do những khó khăn trong việc thu thập những
thông số nhân trắc học đáng tin cậy.
Việc cung cấp chế độ dinh dưỡng tối ưu cho những
bệnh nhân này đầy thử thách đồng thời cũng rất quan trọng
vì tình trạng dinh dưỡng kém có ảnh hưởng xấu đến chất
lượng cuộc sống và sức khỏe nói chung. Những nhà cung 1
cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tham gia vào công tác chăm
sóc những bệnh nhân KTTK cần phải hiểu rõ những hậu
quả của chế độ dinh dưỡng nghèo nàn ở những bệnh nhi
này đồng thời cũng cần nắm được vai trò đặc biệt của liệu
pháp dinh dưỡng trong điều trị bệnh. Để có thể cung cấp
chế độ dinh dưỡng phù hợp cho nhóm bệnh nhi này cần có
sự phối hợp của nhiều chuyên ngành.
              
                                            
                                
            
 
            
                 27 trang
27 trang | 
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 998 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Những bài nổi bật về dinh dưỡng lâm sàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
in, PUCAI, PCDAI và 
CRP được đo tại đường gốc (baseline). Kết qủa sơ bộ là sự 
tái phát có triệu chứng xuất hiện trong vòng 3 tháng với 
những giá trị ban đầu dẫn đến việc phải dùng steroids, liệu 
pháp EEN hay phải dùng tăng liều aminosalicylate. 
KẾT QUẢ: 15 bệnh nhân tuổi vị thành niên (24%) có biểu 
hiện tái phát trong 3 tháng với những giá trị ban đầu. Dựa 
trên đường cong đặc trưng hoạt động (receiver operating 
characteristic curve) giá trị ngưỡng tối ưu của calprotectin 
để phân biệt giữa bệnh nhân có nguy cơ cao và nguy cơ thấp 
được xác định là 500ug/g (microgram/gram). Chỉ số đánh 
giá PUCAI hay PCDAI tiên lượng tái phát ở 42% (11/26) 
bệnh nhân tuổi vị thành niên có kết quả dương tính (số điểm 
≥10 điểm), trong khi với kết quả PUCAI hay PCDAI âm tính 
nguy cơ tái phát giảm xuống còn 11% (4/36). Bệnh nhân tuổi 
vị thành niên có kết quả kiểm tra calprotectin dương tính có 
nguy cơ diễn tiến tái phát bệnh trong 3 tháng là 53% (10/19), 
trong khi kết quả calprotectin âm tính cho 12% (5/43) nguy 
cơ tái phát có triệu chứng. Với kết quả CRP dương tính (giá 
trị ngưỡng 10mg/L) nguy cơ tái phát là 50% (4/8), trong khi 
một kết quả CRP âm tính cũng hiếm khi có thể làm giảm 
nguy cơ so với xác suất của thử nghiệm trước đó (từ 24% đến 
21% (11/53). Bổ sung cho PUCAI hay PCDAI, test kiểm tra 
calprotectin giúp hạn chế số trường hợp dương tính giả do 
đó đã làm tăng tính đặc hiệu trong việc phát hiện viêm 
đường tiêu hóa: 60% (9/15) bệnh nhân tuổi vị thành niên có 
những kết quả kiểm tra dương tính đã bị tái phát có triệu 
chứng. Với kết quả âm tính, nguy cơ tái phát giảm xuống còn 
10% (3/32). CRP không đóng góp nhiều khi được thực hiện 
như một test kiểm tra bổ sung sau khi đã có điểm đánh giá 
PUCAI hay PCDAI: 2 trong 5 bệnh nhân với những kết quả 
dương tính có diễn tiến tái phát có triệu chứng (40%). KẾT 
LUẬN: không giống như CRP, xác định nồng độ 
calprotectin trong phân được thực hiện như một test bổ sung 
cho PUCAI hay PCDAI giúp cho việc chẩn đoán tái phát 
trước khi các triệu chứng bộc lộ trở nên dễ dàng hơn. Điều 
này có thể giúp xác định bệnh nhân tuổi vị thành niên cần 
được điều trị tích cực vào thời điểm bệnh còn rất nhẹ chứ 
không phải vào lúc bệnh đã tái phát rõ rệt trên lâm sàng. Cần 
có những nghiên cứu tiếp theo để đảm bảo cho việc xác định 
vai trò của test kiểm tra nồng độ calprotectin trong phân đối 
với quá trình điều trị và kết quả điều trị.
MỤC TIÊU: trong các nghiên cứu đã được công bố, người ta 
thường sử dụng những qui trình khác nhau để đánh giá việc 
chỉ nuôi dưỡng qua ống thông (exclusive enteral nutrition-
EEN) trong điều trị bệnh nhi bị bệnh Crohn. Nghiên cứu này 
nhằm tìm hiểu rõ các qui trình hiện được sử dụng ở các trung 
tâm nhi khoa khác nhau trên thế giới và làm nổi bật những 
điểm giống và khác nhau của các quy trình này. PHƯƠNG 
PHÁP: một bộ câu hỏi đã được gửi đến cho các cá nhân ở các 
trung tâm nhi khoa ở các nước châu Âu, bắc Mỹ và Châu Á 
Thái Bình Dương. Những người tham gia được hỏi về số trẻ 
được điều trị bằng EEN ở trung tâm của họ trong những năm 
trước đó và cung cấp những chi tiết của qui trình EEN được 
sử dụng cho những bệnh nhi này. KẾT QUẢ: Chúng tôi 
nhận được phản hồi từ 35 trung tâm khác nhau (chiếm 42% 
số trung tâm được hỏi). Thời gian dùng EEN cho bệnh nhi 
dao động từ 12 tuần, nhưng thông thường nhất 
là 6-8 tuần. Mặc dù có 23 công thức (thức ăn) khác nhau 
được dùng ở những trung tâm này, hầu hết (90%) sử dụng 
công thức đa phân (polymeric formular). Hương liệu thực 
phẩm cũng thường được thêm vào nhưng giữa các trung tâm 
khác nhau có sự khác biệt rất lớn trong việc kê đơn thực 
phẩm và chất lỏng cho phép dùng trong thời gian điều trị 
bằng EEN. Sự cho ăn trở lại sau EEN cũng khác nhau rất 
nhiều: khuyến nghị thông dụng nhất là cho ăn lúc đầu ở chế 
độ có ít chất sợi (26%) hay cho ăn với lượng thức ăn tăng từ 
từ khi lượng thức ăn theo công thức (của chế độ EEN) giảm 
dần (52%). KẾT LUẬN: nghiên cứu dựa trên bộ câu hỏi này 
cho thấy sự khác biệt rất lớn trong các qui trình EEN được 
dùng ở các vùng khác nhau trên thế giới. Việc xây dựng 
những qui trình nhất quán có thể làm tăng sự chấp nhận, hiệu 
quả và khiến cho liệu pháp này được sử dụng rộng rãi hơn.
Ñieàu tra quoác teá veà caùc qui trình 
nuoâi döôõng baèng oáng thoâng duøng 
cho treû em bò beänh Crohn
Taïp chí J Dig Dis thaùng 2 naêm 2012;13(2):107-112. 
Whitten KE, Rogers P, Ooi CK, Day AS. 
Khoa tieâu hoùa dinh döôõng, beänh vieän nhi ñoàng Sydney, 
Tröôøng söùc khoûe treû em vaø phuï nöõ, Ñaïi hoïc New South Wales, UÙc. 
Vai troø cuûa test kieåm tra noàng ñoä 
calprotectin trong phaân ñeå tieân löôïng 
taùi phaùt ôû nhöõng beänh nhaân vò thaønh nieân 
bò vieâm ruoät töï cho laø ñaõ khoûi beänh 
Taïp chí Inflamm Bowel Dis 2012 Jan 24. doi: 10.1002/ibd.22896. 
(Cheá phaåm ñieän töû tröôùc khi in).
van Rheenen PF. 
Beänh vieân nhi Beatrix. Trung taâm Y Ñaïi hoïc Groningien, Haø Lan.
Nhóm nghiên cứu về suy dinh dưỡng của Hiệp hội ăn kiêng 
Hoa kỳ (ADA) đã đề xuất những tiêu chuẩn đặc trưng dựa 
trên bằng chứng về suy dinh dưỡng ở người lớn để sử dụng 
kết hợp với những khái niệm suy dinh dưỡng được Hiệp hội 
dinh dưỡng qua đường tĩnh mạch và dinh dưỡng bằng ống 
thông của Hoa kỳ (American Society for Parenteral and 
Enteral Nutrition - A.S.P.E.N) đưa ra năm 2009 trong phân 
1
loại suy dinh dưỡng. Những tiêu chuẩn này được xây dựng 
để chuẩn hoá hồ sơ chẩn đoán và tỷ lệ lưu hành suy dinh 
dưỡng ở người lớn trong các bệnh viện, minh giải mức bồi 
hoàn tăng, giúp đánh giá ảnh hưởng của suy dinh dưỡng lên 
kết quả điều trị.
Tiêu chuẩn cuối cùng là một khái niệm tương đối mới đối 
với các chuyên gia dinh dưỡng. Chức năng thể chất được đo 
4
bằng sức nắm chặt của tay và, đối với những người nhiều 
tuổi hơn, là khả năng leo cầu thang (hoặc khả năng nhấc ghế 
hoặc các nghiên cứu về cân bằng) và test đi bộ 4 mét và các 
test đi bộ khác.
Sau phẫu thuật hoặc tổn thương đường ruột, đường ruột sẽ có 
quá trình thích nghi để bù đắp cho việc bị giảm diện tích bề mặt 
và giảm chức năng. Đường ruột dài ra và trở nên dày hơn, giãn 
rộng hơn. Tăng chiều dài nhung mao và chiều sâu của hốc ruột 
làm tăng khả năng tiêu hóa và vận chuyển dinh dưỡng của các tế 
1
bào lớp lót niêm mạc ruột/tế bào hấp thu.
Các tiêu chuẩn chi tiết được đưa ra để đánh giá mức độ và 
thời gian ảnh hưởng của mỗi thành phần. Tổng hợp các 
thành phần sẽ giúp xác định mức độ trầm trọng của suy dinh 
dưỡng. 
Các tiêu chuẩn được đề xuất nói trên có thể thay đổi theo 
thời gian khi xuất hiện những bằng chứng về vai trò của 
chúng. Hiện nay, hiệp hội ăn kiêng Hoa kỳ khuyến cáo mạnh 
mẽ việc sử dụng các tiêu chuẩn nói trên trong bệnh viện cũng 
như việc thu thập dữ liệu để đánh giá phương pháp chuẩn 
hoá dùng cho chẩn đoán và phân biệt suy dinh dưỡng. 
Chế độ dinh dưỡng tối ưu phụ thuộc vào chiều dài và tình 
trạng của phần ruột còn lại, có thể được đánh giá bằng các 
nghiên cứu hấp thụ, nghiên cứu X quang, nghiên cứu bệnh học 
hay sinh hóa (ví dụ, plasma citrullin, một chỉ thị của khối lượng 
2
các tế bào hấp thu). Phương pháp có độ tin cậy cao nhất là 
phương pháp đo chiều dài phần còn lại của ruột từ dây chằng 
Treitz trong quá trình phẫu thuật. Đánh giá dinh dưỡng, bao 
gồm hình thức chất thải dạ dày ruột, chế độ ăn uống và cân bằng 
nước hàng ngày, những thay đổi trọng lượng cơ thể và các chỉ số 
đánh giá trong phòng thí nghiệm, là một phương pháp lâm sàng 
Các khái niệm về suy dinh dưỡng dựa trên nguyên nhân 
của A.S.P.E.N. coi viêm hệ thống (systemic inammation) 
là một trong những yếu tố gây ra suy dinh dưỡng. A.S.P.E.N. 
định nghĩa “suy dinh dưỡng do thiếu ăn” là một trạng thái 
thiếu ăn mạn tính không kèm theo viêm (ví dụ như chứng 
biếng ăn do thần kinh); “suy dinh dưỡng do bệnh mạn tính” 
là suy dinh dưỡng kèm theo viêm mạn tính từ cấp độ nhẹ đến 
cấp độ trung bình (ví dụ như suy chức năng cơ quan, ung thư 
tuỵ, hoặc tình trạng béo phì giảm khối cơ); và “suy dinh 
dưỡng do bệnh cấp tính hoặc chấn thương” là tình trạng suy 
dinh dưỡng kèm theo viêm cấp, nghiêm trọng (ví dụ như 
nhiễm trùng nghiêm trọng, bỏng, hôn mê hoặc chấn thương 
1
sọ não kín).
Các tiêu chuẩn xác định suy dinh dưỡng không bao 
gồm các protein huyết tương, ví dụ như albumin và 
prealbumin; bằng chứng cho thấy không có tương quan giữa 
hàm lượng của những protein giảm hàm lượng khi có viêm 
2,3
trong huyết tương với giảm cân, và hàm lượng protein 
huyết tương không thay đổi khi thay đổi lượng dinh dưỡng 
được đưa vào.
Ñ
ie
åm
 n
o
åi 
b
a
ät 
c
u
ûa
 A
D
A
 F
N
C
E
Những bài nổi bật tại 
ADA – Hoäi nghò vaø Trieån laõm 
veà Dinh döôõng vaø Thöïc phaåm
25-27 Tháng 9 năm 2011 – San Diego, California, USA
Bí maät heù loä: Phöông phaùp chuaån 
hoùa ñeå nhaän bieát vaø laäp hoà sô 
suy dinh döôõng
Các tiêu chuẩn đặc trưng của suy dinh dưỡng được đề xuất 
như sau:
lượng dinh dưỡng đầu vào giảm
giảm cân ngoài ý muốn
thay đổi thành phần cơ thể, ví dụ như mất lớp mỡ dưới da, 
giảm lượng cơ và phù; và
thay đổi chức năng và hoạt động thể chất
Taøi lieäu tham khaûo:
Ñònh höôùng phaãu thuaät ñöôøng ruoät: 
Laøm theá naøo ñeå ñaùnh giaù vaø 
nuoâi döôõng nhöõng ngöôøi coù 
ñöôøng tieâu hoùa ñaõ bieán ñoåi
Ñ
IE
ÅM
 N
O
ÅI 
B
A
ÄT
 C
U
ÛA
 A
D
A
 F
N
C
E
2
0
1
2
 T
a
äp
 8
, 
S
o
á 
2
đơn giản đánh giá chức năng và tình trạng ruột. khỏe ở Mỹ. Mục tiêu của cải cách hệ thống y tế và Đạo luật 
chăm sóc sức khoẻ ACA (Affordable Care Act – ACA) là 
giảm tốc độ tăng chi phí y tế. Hiện nay chi phí y tế chiếm tới 
21% tổng sản phẩm quốc gia. Các tổ chức chịu trách nhiệm 
chăm sóc y tế (accountable care organizations – ACOs), 
được thành lập theo đạo luật ACA nhằm điều phối hoạt động 
của các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tăng cường 
chất lượng, và giảm chi phí, cần phải giúp làm tăng khả năng 
tiếp cận và nhu cầu đối với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe 
của các chuyên gia về dinh dưỡng.
Những xu hướng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bao 
gồm sự đa dạng và xu thế đang già hóa của dân số; sự chuyển 
dịch từ điều trị bệnh cấp tính sang quản lý chăm sóc các bệnh 
mạn tính; phổ lựa chọn rộng hơn của người tiêu dùng và khả 
năng tiếp cận thông tin; tăng cường áp dụng công nghệ trong 
dịch vụ y tế (ví dụ, phẫu thuật bằng robot, tư vấn thông qua 
internet) và trong quản lý dữ liệu (ví dụ, các hồ sơ y tế điện 
tử) là những xu hướng có ảnh hưởng đến nhân lực y tế. 
Nhân lực y tế chiếm một phần lớn và quan trọng trong 
1
nền kinh tế và tạo nên hầu hết sự tăng trưởng việc làm. 
Người ta cho rằng nhu cầu về các nhà chuyên gia y tế sẽ tăng 
35% từ năm 2000 tới năm 2016. Mặc dù nhân lực y tế đang 
già đi, rất nhiều người đến tuổi về hưu đang trì hoãn việc này 
2
do hoàn cảnh kinh tế.
Dược phẩm và nhiều ngành nghề khác đã tăng yêu cầu 
tối thiểu là phải có bằng bác sĩ lâm sàng nhằm mở rộng phạm 
vi thực hành và tăng tiềm năng đầu vào. Mặc dù yêu cầu về 
bằng cấp đầu vào trong lĩnh vực y tế đang leo thang, thị 
trường nhân lực y tế với bằng cấp thấp hơn vẫn đang tăng lên 
để kiềm chế chi phí lao động.
Các xu hướng giáo dục đại học – sự thiếu hụt giảng viên 
có bằng tiến sĩ, ảnh hưởng quốc tế lớn hơn và phát triển giáo 
dục từ xa – đang ảnh hưởng tới quá trình đào tạo nhân lực y 
tế. Mô hình giáo dục đại học truyền thống đang thay đổi với 
sự phát triển mạnh mẽ của các trường công và trường tư vì 
lợi nhuận do sinh viên thích tìm kiếm sự thuận tiện, các khoá 
học trực tuyến, đăng ký học bán thời gian hoặc các khóa học 
chi phí thấp hơn thay cho các trường truyền thống học 4 
3
năm. Bản chất phức tạp của việc phát triển chương trình 
giáo dục hạn chế khả năng của nhà trường có thể theo kịp với 
nhu cầu nhân lực luôn thay đổi. 
Ông Collier dự đoán rằng nền kinh tế sẽ ổn định trong 
vòng 3 đến 5 năm tới, tạo ra một làn sóng người về hưu và 
mở rộng các cơ hội việc làm. Tuy nhiên, năng lực của 
chương trình giáo dục sẽ không đủ để thỏa mãn nhu cầu. 
Ông dự đoán sẽ có những thay đổi trong thực hành lâm sàng 
và nghiên cứu hệ gien sẽ có ảnh hưởng đáng kể lên thực hành 
lâm sàng. Công chúng sẽ quan tâm hơn đối với việc tự chăm 
sóc, các xét nghiệm và các công cụ phân tích không cần kê 
đơn sẽ mở rộng hơn. 
Sự bất ổn liên tục của nền kinh tế và những thay đổi trong 
lĩnh vực chăm sóc sức khỏe có ảnh hưởng sâu rộng tới hệ 
thống nhân lực y tế ở Mỹ. Khả năng tiếp cận, chi phí và chất 
lượng là những yếu tố then chốt của hệ thống chăm sóc sức 
Nghiên cứu sự có mặt của các chất dinh dưỡng trong ruột 
(luminal nutrients) cho thấy ảnh hưởng dinh dưỡng lên khả 
năng tiêu hoá và hấp thu của niêm mạc ruột. Những chất 
dinh dưỡng nhất định, các chất tiết, các hormone tiêu hoá và 
sự tăng lưu lượng máu cũng thúc đẩy quá trình thích nghi 
3
của ruột do việc cho ăn bằng ống thông đem lại. Việc cho ăn 
bằng ống thông liên tục (chỉ cho ăn bằng ống thông hoặc kết 
hợp với cho ăn theo đường miệng) sau thời gian hậu phẫu 
làm tăng đáng kể sự hấp thụ dinh dưỡng so với việc cho ăn 
4
theo đường miệng đơn thuần. Sự hồi phục chức năng của 
ruột sau mổ có thể đạt được nhờ cho ăn bằng ống thông, kể 
5
cả trong những trường hợp rất khó khăn.
Những bệnh nhân phẫu thuật đường ruột vẫn giữ 
được/không bị cắt đại tràng có thể ăn thức ăn có 
carbohydrates phức, chất xơ hoà tan, protein nguyên vẹn và 
hỗn hợp chất béo triglyceride chuỗi trung bình (MCT – 
medium-chain triglycerides) và chuỗi dài (LCT - long-chain 
4,6
triglycerides) cung cấp 20-30% lượng calo. Các loại 
carbohydrate chưa tiêu hoá và chất xơ hoà tan được lên men 
bởi các vi khuẩn trong đại tràng thành các axít béo chuỗi 
ngắn (SCFAs – short chain fatty acids). Những axit béo 
chuỗi ngắn này có thể được sử dụng như một nguồn năng 
lượng bổ sung, cải thiện hấp thụ natri và nước, đồng thời 
kích thích sự thích nghi của niêm mạc ruột non và đại tràng. 
Ở những bệnh nhân này, việc thay thế LCTs bằng MCTs làm 
tăng đáng kể sự hấp thụ năng lượng so với chế độ ăn chứa 
7
60% LCTs có cùng lượng calo.
Ngược lại, những bệnh nhân không còn đại tràng 
8
nguyên vẹn không được sử dụng thức ăn có xơ hoặc MCTs. 
Những bệnh nhân này nên dùng công thức có chứa 
carbohydrate phức và protein nguyên vẹn. Tổng lượng calo 
hấp thụ nên đạt 30-35kcal/kg/ngày với 1,0-1,5 g 
4
protein/kg/ngày.
Khi được bổ sung vào dinh dưỡng theo đường tĩnh 
mạch, butyrat, một axit béo chuỗi ngắn (SCFA) - chất cung 
cấp hầu hết năng lượng được sử dụng bởi đại tràng - kích 
thích sự thích nghi của ruột ở những con lợn con sơ sinh. 
Điều này có thể là do butyrat giúp quá trình tái tạo vi nhung 
9
mao, tăng diện tích bề mặt cho quá trình tiêu hóa và hấp thụ. 
Thêm butyrat vào dinh dưỡng tĩnh mạch có thể làm giảm sự 
phụ thuộc của các bệnh nhân mất chức năng ruột vào việc ăn 
theo đường tĩnh mạch lâu dài. 
Ñ
ie
åm
 n
o
åi b
a
ät c
u
ûa
 A
D
A
 F
N
C
E
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tham khảo
Baøi thuyeát trình cuûa chuû tòch hoäi thaûo 2011: 
Söï bieán ñoäng nhaân löïc trong lónh vöïc 
chaêm soùc söùc khoûe vaø giaùo duïc
Ñ
IE
ÅM
 N
O
ÅI B
A
ÄT
 C
U
ÛA
 A
D
A
 F
N
C
E
2
0
1
2
 T
a
äp
 8
, S
o
á 2
Dược phẩm dinh dưỡng bổ sung (nutraceutical 
supplements) ví dụ như dầu bạc hà, STW5 và melatonin có 
thể giúp kiềm chế các triệu chứng của hội chứng ruột kích 
thích (IBS – irritable bowel syndrome). Trong một phân tích 
tổng hợp từ 4 nghiên cứu, dầu bạc hà, với tính chất trị co thắt, 
đã có hiệu quả hơn so với giả dược (placebo) trong việc kiểm 
1
soát các triệu chứng IBS. Các chế phẩm dược thảo STW5, 
một hỗn hợp của 9 chất chiết từ thực vật, đã được sử dụng 
trong y học cổ truyền Trung hoa, rất hiệu quả trong việc làm 
giảm bớt các triệu chứng IBS trong một nghiên cứu có đối 
chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial – RCT) trên 
 2
208 bệnh nhân. Trong một nghiên cứu thử nghiệm hai lần 
mù sử dụng giả dược (double-blind - cả bác sĩ và bệnh nhân 
đều không biết mình được dùng giả dược hay thuốc thật) 
trên nhóm đối tượng nữ giới bị IBS, melatonin đã cải thiện 
3
triệu chứng so với giả dược.
FODMAPs là tên viết tắt của Oligo-, Di- và Mono-
saccharides có thể lên men và Polyols, được sử dụng để mô 
tả các carbohydrates mạch ngắn khó hấp thụ (fructans, 
galactans, lactose, fructose và các đường rượu). Các 
FODMAPs đều được lên men rất nhanh chóng bởi các vi 
khuẩn ruột kết, sinh ra khí gây chướng và đau bụng. Việc 
giảm lượng FODMAPs trong thức ăn sẽ làm giảm triệu 
chứng IBS, đặc biệt đối với những bệnh nhân có tình trạng 
phát triển vượt mức của hệ vi sinh vật đường ruột (small 
4
intestinal bacterial overgrowth – SIBO).
Có những bằng chứng thuyết phục cho thấy các vi sinh 
vật có lợi cho sức khỏe (probiotics) kiềm chế các triệu chứng 
5
IBS và làm giảm khả năng tái phát bệnh lý viêm ruột (IBD – 
inamatory bowel disease). Probiotics loại bỏ các tác nhân 
gây bệnh, điều hoà thành phần hệ vi sinh vật đường ruột, và 
làm giảm sự lên men do vi khuẩn, giảm viêm để đảo ngược 
tình trạng mất cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột thường 
thấy ở hội chứng IBD. 
Tuy vậy, ảnh hưởng của probiotics giúp rút ngắn quá 
trình thuyên giảm chứng viêm loét ruột kết (ulcerative 
colitis – UC) kém rõ ràng hơn. Một phân tích tổng hợp cho 
thấy liệu pháp probiotic không giúp làm nhanh quá trình 
thuyên giảm chứng viêm loét ruột kết, nhưng liệu pháp này 
có hiệu quả cao hơn so với giả dược trong việc duy trì sự 
6
thuyên giảm chứng viêm loét này.
Các hợp chất khác trong thức ăn có thể giúp làm giảm 
viêm và tổn thương do hội chứng ruột kích thích bao gồm 
polyphenols, SCFA và các acid béo omega-3. Polyphenols, 
các hợp chất được tổng hợp ở thực vật, làm giảm biểu hiện 
của các gien viêm và làm tăng biểu hiện của các gien bảo vệ 
7
tế bào. SCFA có ảnh hưởng về mặt dinh dưỡng đối với ruột 
8
non và ruột kết. Trong những trường hợp viêm loét ruột kết 
đoạn xa kháng thuốc/dai dẳng, dùng thuốc bơm vào trực 
tràng SCFA có chứa sodium butyrate nồng độ 40-80 mM 
làm giảm tần số đi tiêu và cải thiện điểm đánh giá bằng xét 
9
nghiệm mô bệnh học qua nội soi.
Các acid béo omega-3 làm giảm viêm và tỏ ra hứa hẹn 
10
trong điều trị bệnh lý viêm ruột. Trong một nghiên cứu có 
đối chứng ngẫu nhiên trên 121 bệnh nhân bị viêm loét ruột 
kết, những đối tượng sử dụng thuốc uống theo đường miệng 
có bổ sung dầu cá, chất xơ hòa tan và chất chống oxi hóa đã 
có thể giảm đáng kể liều prednisone cần thiết để kiềm chế 
11
các triệu chứng lâm sàng so với nhóm sử dụng giả dược. 
Trong một nghiên cứu nhỏ, những bệnh nhân bị bệnh Crohn 
sử dụng thuốc tương tự cho thấy có sự tăng lắng đọng chất 
béo và sự tích tụ các chất không phải là chất béo, cải thiện 
trạng thái vitamin D và chất lượng cuộc sống cũng như giảm 
 12
mức độ hoạt động bệnh. Những nghiên cứu tích hợp các 
chất béo omega-3 với liệu pháp y học thông thường vẫn còn 
thiếu. 
Dầu oliu, nước cà chua, rượu vang đỏ, quả óc chó, hạt 
lanh, anh đào, bột tỏi, chè đen và chè xanh là những thực 
phẩm chức năng có tác dụng làm giảm các dấu hiệu viêm 
13
trong các nghiên cứu can thiệp ở người.
Các quy trình phẫu thuật giảm cân – bao gồm phẫu thuật nội 
soi đặt đai dạ dày (laparoscopic adjustable gastric banding – 
LAGB), cắt vạt dạ dày (sleeve gastrectomy – SG), nối tắt dạ 
dày kiểu Roux-Y (RYGB) – có thể ảnh hưởng cảm giác đói, 
1
no và tình trạng dinh dưỡng theo nhiều cách khác nhau. Sự 
giảm cân và các kết quả khác sẽ có thể khác nhau phụ thuộc 
vào giới hạn thể tích dạ dày và phần ruột non nối tắt cũng 
như ảnh hưởng của phẫu thuật, nếu có, lên các hormone ruột 
và các tín hiệu thần kinh điều khiển sự bắt đầu và kết thúc 
 2
bữa ăn. Tuy nhiên, đối với phẫu thuật giảm cân không phức 
tạp/không gây biến chứng, rất nhiều khuyến cáo về dinh 
dưỡng có thể được chuẩn hóa để cải thiện chất lượng chăm 
sóc bệnh nhân. 
Giảm 10-15% cân nặng trước phẫu thuật được khuyến 
cáo nhằm làm giảm thể tích gan và tạo thuận lợi cho các khía 
cạnh kỹ thuật của phẫu thuật. Chế độ ăn nên dựa trên dinh 
dưỡng hợp lý và điều chỉnh theo từng cá nhân theo chỉ số 
khối cơ thể (body mass index BMI) và các bệnh khác có thể 
đi kèm với béo phì. 
Phẫu thuật giảm cân hạn chế thể tích hoạt động chức 
năng của dạ dày và giới hạn phần thức ăn đưa vào ở một mức 
độ nhất định; do đó, chế độ dinh dưỡng chuẩn sau phẫu thuật 
giảm cân được xây dựng dựa trên sự tiến triển của cấu trúc 
và thể tích theo mức dạ dày có thể tiếp nhận. Chế độ dinh 
dưỡng dạng lỏng ngay sau phẫu thuật chú trọng sự cung cấp 
đầy đủ nước, sử dụng chất lỏng không có đường và caffeine. 
Thức ăn dạng lỏng giàu protein và ít đường được đưa vào ở 
giai đoạn 2 để cung cấp 60-80 g protein mỗi ngày. Các bệnh 
nhân nối tắt dạ dày kiểu Roux-Y thường có thời gian thức ăn 
tống ra khỏi dạ dày nhanh hơn và phải dùng thức ăn lỏng tốc 
độ chậm và hạn chế lượng đường xuống dưới 25 g mỗi lần 
ăn. Ở giai đoạn 3 dinh dưỡng được kê bao gồm 48-60 ounces 
(1.440-1.800 mL) thức ăn lỏng, cộng thêm rau, hoa quả, và 
các thức ăn giàu đạm dạng trơn, mềm đồng nhất, 3 đến 5 bữa 
Tài liệu tham khảo
Lieäu phaùp dinh döôõng tích hôïp 
ñieàu trò hoäi chöùng ruoät kích thích 
vaø beänh lyù vieâm ruoät 
Phaãu thuaät giaûm caân: 
ñaõ ñeán luùc phaûi chuaån hoùa 
phöông phaùp chaêm soùc dinh döôõng
Ñ
IE
ÅM
 N
O
ÅI 
B
A
ÄT
 C
U
ÛA
 A
D
A
 F
N
C
E
2
0
1
2
 T
a
äp
 8
, 
S
o
á 
2
Ñ
ie
åm
 n
o
åi 
b
a
ät 
c
u
ûa
 A
D
A
 F
N
C
E
chính mỗi ngày. Ở giai đoạn 4, các bệnh nhân có thể ăn đặc 
3
hơn. Những mục tiêu duy trì lâu dài nhằm tạo ra một chế độ 
dinh dưỡng khoẻ mạnh, phù hợp suốt đời và luyện tập cách 
4
ăn lưu ý phân biệt dấu hiệu đói vật lý và đói tâm lý.
Phẫu thuật giảm cân mang lại những nguy cơ đặc biệt 
đối với những bệnh nhân béo phì bị suy thận mãn (chronic 
kidney disease – CKD). Sự thiếu đồng cùng với các triệu 
chứng thần kinh cấp tính, sự thiếu vitamin E và tăng hàm 
lượng kẽm đã được ghi nhận 5 tháng sau khi tiến hành nối tắt 
4
dạ dày ở những bệnh nhân mắc bệnh thận giai đoạn cuối.
Việc điều trị chứng béo phì ở những bệnh nhân suy thận 
mãn rất phức tạp vì một nghịch lý là chứng béo phì giúp cải 
thiện khả năng sống sót ở những bệnh nhân phải lọc máu. 
Không giống như ở quần thể bình thường, những bệnh nhân 
thừa cân phải lọc máu, những người có chỉ số khối nạc cơ thể 
(lean body mass) cao hơn và có lượng calo ăn vào phù hợp sẽ 
5,6
có nguy cơ tử vong thấp hơn.
Sự chăm sóc cá nhân, giám sát thường xuyên và mối 
liên hệ chặt chẽ giữa bác sĩ phẫu thuật và bác sĩ phụ trách lọc 
máu là những yếu tố quan trọng đảm bảo kết quả điều trị 
thành công sau phẫu thuật giảm cân đối với những bệnh 
nhân mắc ESKD. Những quy trình phẫu thuật phức tạp hơn 
làm tăng nguy cơ về dinh dưỡng và đòi hỏi sự theo dõi sát 
7
sao hơn để giảm biến chứng dinh dưỡng sau phẫu thuật.
Tiểu đường và huyết áp cao gắn với béo phì là hai nguyên 
nhân thường gặp nhất gây ra bệnh thận giai đoạn cuối (end-
stage kidney disease-ESKD). Tuy nhiên, việc ghép thận cho 
những bệnh nhân béo phì mắc ESKD thường bị các trung 
tâm ghép tạng coi là không khả thi vì khả năng ghép thành 
công ở những bệnh nhân này rất thấp.
Sự thất bại khi sử dụng các phương pháp giảm cân 
truyền thống đối với những người béo phì mắc ESKD cũng 
như ảnh hưởng tích cực của phẫu thuật giảm cân đối với 
những bệnh đi kèm có liên quan với béo phì trong quần thể 
bình thường đã khiến cho phẫu thuật giảm cân được coi là 
một lựa chọn cho những bệnh nhân này nhằm cải thiện khả 
năng ghép tạng và giảm nguy cơ biến chứng sau ghép tạng. 
Một nghiên cứu quy mô nhỏ thông báo đã thành công 
khi tiến hành LAGB ở ba bệnh nhân có mắc ESKD. Sau khi 
giảm 35-41% trọng lượng dư thừa và việc ghép thận trở nên 
khả thi, những bệnh nhân này đã được ghép thận thành công 
2
mà không bị biến chứng gì. Trong một nghiên cứu trên 41 
bệnh nhân béo phì ở các giai đoạn khác nhau của suy thận 
mạn tính (chronic renal failure – CRF), nối tắt dạ dày 
(gastric bypass – GBP) đã làm giảm nguy cơ tử vong tương 
3
đối xuống 6%. Các tình trạng bệnh lý đi kèm với bệnh béo 
phì được cải thiện ở tất cả các bệnh nhân, và việc ghép thận 
đã trở nên khả thi đối với những bệnh nhân suy thận mãn. 
Tất cả các bệnh nhân trải qua giải phẫu giảm cân đều 
cần được bổ sung vitamin và khoáng chất lâu dài. Nguy cơ 
thiếu vi chất dinh dưỡng thấp nhất ở những bệnh nhân 
LAGB và cao nhất ở những bệnh nhân RYGB, những bệnh 
nhân có vị trí hấp thụ bị nối tắt và sự tiết acid dạ dày bị suy 
5
giảm.
Các bệnh nhân LAGB cần được cung cấp vitamin liều 
cao cung cấp đủ lượng 100% nhu cầu hàng ngày; những 
bệnh nhân RYGB và SG cần liều đảm bảo 200% nhu cầu 
hàng ngày. Các bệnh nhân nên tránh dùng dạng 
multivitamin có thời gian phóng thích kéo dài (extended-
release), dạng có bọc và tan trong ruột (enteric-coated), hoặc 
dạng công t
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 85a5a853e9804967487c43b99480a977_4109.pdf 85a5a853e9804967487c43b99480a977_4109.pdf