Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi một đường vào là một trong các phương pháp giúp tăng hiệu quả thẫm mỹ
và giảm tỉ lệ biến chứng trong phẫu thuật ít xâm hại.Phương pháp này đã được áp dụng trong nhiều loại phẫu
thuật tổng quát, nhất là cắt túi mật nội soi. Đối với phẫu thuật đại trực tràng, đã có vài báo cáo trên thế giới về
phẫu thuật nội soi một đường vào cắt đại tràng.Tuy nhiên, đa số nghiên cứu được thực hiện với trocar chuyên
dụng có nhiều kinh thao tác và các dụng cụ phẫu tích có thể gập góc được.
Mục tiêu: Mô tả kỹ thuật, đánh giá khả năng áp dụng và ghi nhận kết quả sớm của phẫu thuật nội soi cắt đại
tràng qua một vết rạch da với các dụng cụ nội soi tiêu chuẩn.
Đối tượng nghiên cứu: Các trường hợp phẫu thuật nội soi cắt đại tràng phải và đại tràng sigma để điều trị
bệnh lành tính hoặc bệnh ác tính.
Tiêu chuẩn chọn bệnh: Tổn thương khu trú ở đại tràng phải và đại tràng sigma. Đối với bệnh ung thư, chọn
u chưa xâm lấn khỏi thanh mạc (
Kết quả: Từ tháng 8/2010 đến tháng 2/2012, có 22 trường hợp đáp ứng tiêu chuẩn chọn bệnh (19 ungthư/ 2
u lao/ 1 u mỡ ở đại tràng). Trong đó, 17 trường hợp cắt đại tràng phải, 5 trường hợp cắt đại tràng chậu hông. Tỉ
lệ nam/nữ là 0,75 với tuổi trung bình 53 tuổi (35 – 77). Thời gian phẫu thuật trung bình là 115 phút (70 –
150).Có 3 trường hợp cần thêm một trocar để thao tác. Không có biến chứng trong mổ và không có trường hợp
nào chuyển mổ nội soi qui ước. Có 1 trường hợp nhiễm trùng vết mổ, 1 trường hợp đột tử vào ngày hậu phẫu thứ
4. Thời gian nằm viện trung bình là 7,38 ngày (7-10 ngày)
              
            Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 52
PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT ĐẠI TRÀNG PHẢI VÀ ĐẠI TRÀNG CHẬU HÔNG 
QUA MỘT VẾT RẠCH DA 
Dương Bá Lập*, Đỗ Minh Hùng* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi một đường vào là một trong các phương pháp giúp tăng hiệu quả thẫm mỹ 
và giảm tỉ lệ biến chứng trong phẫu thuật ít xâm hại.Phương pháp này đã được áp dụng trong nhiều loại phẫu 
thuật tổng quát, nhất là cắt túi mật nội soi. Đối với phẫu thuật đại trực tràng, đã có vài báo cáo trên thế giới về 
phẫu thuật nội soi một đường vào cắt đại tràng.Tuy nhiên, đa số nghiên cứu được thực hiện với trocar chuyên 
dụng có nhiều kinh thao tác và các dụng cụ phẫu tích có thể gập góc được. 
Mục tiêu: Mô tả kỹ thuật, đánh giá khả năng áp dụng và ghi nhận kết quả sớm của phẫu thuật nội soi cắt đại 
tràng qua một vết rạch da với các dụng cụ nội soi tiêu chuẩn. 
Đối tượng nghiên cứu: Các trường hợp phẫu thuật nội soi cắt đại tràng phải và đại tràng sigma để điều trị 
bệnh lành tính hoặc bệnh ác tính. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh: Tổn thương khu trú ở đại tràng phải và đại tràng sigma. Đối với bệnh ung thư, chọn 
u chưa xâm lấn khỏi thanh mạc (<T4b) 
Kết quả: Từ tháng 8/2010 đến tháng 2/2012, có 22 trường hợp đáp ứng tiêu chuẩn chọn bệnh (19 ungthư/ 2 
u lao/ 1 u mỡ ở đại tràng). Trong đó, 17 trường hợp cắt đại tràng phải, 5 trường hợp cắt đại tràng chậu hông. Tỉ 
lệ nam/nữ là 0,75 với tuổi trung bình 53 tuổi (35 – 77). Thời gian phẫu thuật trung bình là 115 phút (70 – 
150).Có 3 trường hợp cần thêm một trocar để thao tác. Không có biến chứng trong mổ và không có trường hợp 
nào chuyển mổ nội soi qui ước. Có 1 trường hợp nhiễm trùng vết mổ, 1 trường hợp đột tử vào ngày hậu phẫu thứ 
4. Thời gian nằm viện trung bình là 7,38 ngày (7-10 ngày) 
Bàn luận: Nội soi cắt đại tràng qua một vết rạch da có thể áp dụng được trong điều trị các bệnh lý của đại 
tràng nhằm tăng hiệu quả thẫm mỹ mà vẫn đạt tính an toàn của phẫu thuật ít xâm hại. 
Từ khóa: Cắt đại tràng nội soi, phẫu thuật nội soi một đường vào. 
ABSTRACT 
SINGLE – INCISION LAPAROSCOPIC SURGERY: EARLY RESULT IN RIGHT AND SIGMOID 
COLECTOMY 
Duong Ba Lap, Do Minh Hung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 1 - 2014: 52 - 57 
Introduction: Recently, single incision laparoscopic surgery (SILS), as well as needlescopic and natural 
orifice translumenal endoscopic surgery (NOTES), has been studied in progress for less invasive surgery and 
cosmetic improvement. 
The aims: The aims of this report is to describe the technique and to investigate the safety of SIL colectomy. 
Methods: In our initial study, SILS was applied for diseases of right and sigmoid colon.With many standard 
ports inserted close together through a single umbilical incision, the operation was performed in the same 
technique as in conventional laparoscopic colectomy, using a medial to lateral approach, with high ligation of the 
* Khoa Tiêu hóa Bệnh viện Bình Dân TpHCM. 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Dương Bá Lập ĐT: 0913675764 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 53
vessels and dissection the appropriate colic segment. The anastomosis was performed extra corporally. 
Results: Between August 2010 and February 2012, SILS was selectively performed for 22 patients including 
17 right and 5 sigmoid colectomy. There were 3 cases of benign tumor. The median age was 53 years (range 35 – 
77). The average operating time was 115 minutes (range 70 – 150). One additional port was necessary for 3 cases. 
There was no conversion and no complication during operation. One case had wound infection. One died 
suddenly from aspiration 4 days after surgery. The mean hospital stay was 7.38 days (7 – 10). 
Conclusions: Single incision laparoscopic colectomy is feasible and safe, not requiring special and expensive 
instruments. This procedure enhances the cosmetic aspect without increasing the operating time and 
complications. 
Keywords: Laparoscopic colectomy, single incision laparoscopic surgery (SILS). 
MỞ ĐẦU 
Hiện nay, phẫu thuật nội soi ngày càng trở 
nên phổ biến, được ứng dụng rộng rãi trong 
hầu hết các chuyên ngành ngoại khoa và đang 
dần thay thế vai trò của mổ mở. Thời gian gần 
đây, xu hướng chung của thế giới là tăng 
cường giảm thiểu tối đa mức độ xâm hại của 
phẫu thuật nội soi, từ việc sử dụng các dụng 
cụ có kích thước nhỏ đến việc tận dụng đường 
vào qua các lỗ tự nhiên của cơ thể (NOTES) và 
gần đây nhất là áp dụng phẫu thuật nội soi 
một đường vào (SILS). 
Phẫu thuật nội soi một đường vào được 
ghi nhận như là một nỗ lực giúp tăng hiệu quả 
thẫm mỹ và giảm tỉ lệ biến chứng trong phẫu 
thuật ít xâm hại. Phương pháp này đã được áp 
dụng trong nhiều loại phẫu thuật tổng quát, 
nhất là cắt túi mật nội soi. Đối với phẫu thuật 
đại trực tràng, đã có vài báo cáo trên thế giới 
về phẫu thuật nội soi một đường vào cắt đại 
tràng(3). Tuy nhiên, đa số nghiên cứu được 
thực hiện với trocar chuyên dụng có nhiều 
kinh thao tác và các dụng cụ phẫu tích đặc biệt 
có thể gập góc được. Tại Việt Nam, một số 
trung tâm ngoại khoa lớn đã áp dụng phẫu 
thuật nội soi cắt đại tràng một đường vào với 
các trocar thông thường và các dụng cụ nội soi 
tiêu chuẩn. 
Với những dụng cụ thông dụng hiện có và 
với nguồn bệnh dồi dào, chúng tôi mong 
muốn sẽ áp dụng thành công kỹ thuật mới này 
tại bệnh viện Bình Dân. 
Mục tiêu đề tài 
Đánh giá khả năng áp dụng và ghi nhận kết 
quả sớm của phẫu thuật nội soi cắt đại tràng qua 
một vết rạch da. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả, áp dụng kỹ 
thuật mới. 
Đối tượng nghiên cứu 
Các trường hợp phẫu thuật nội soi cắt đại 
tràng phải và đại tràng sigma để điều trị bệnh 
lành tính hoặc bệnh ác tính. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh: 
- Tổn thương khu trú ở đại tràng phải và đại 
tràng sigma. 
- Khối u chưa xâm lấn khỏi thanh mạc đối 
với bệnh ung thư (<T4a). 
Thời gian nghiên cứu 
18 tháng. 
Mô tả kỹ thuật 
a. Đặt trocar: thay cho SILS port chuyên 
dụng, chúng tôi sử dụng 3 trocar thông 
thường (2 trocar 10mm và 1 trocar 5mm). Đầu 
tiên, đặt trocar 10cm ở rốn, đưa ống soi quan 
sát đánh giá tổn thương. Nếu đáp ứng tiêu 
chuẩn lựa chọn, chúng tôi tiếp tục đặt 2 trocar 
kế tiếp trên một đường rạch da dài 5cm qua 
rốn. (nếu cắt đại tràng phải) hoặc dưới rốn 
(nếu cắt đại tràng sigma). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 54
b. Phẫu tích cắt đại tràng theo trình tự từ 
giữa ra bên (media to lareral dissection). Sử 
dụng thường qui dao cắt siêu âm Harmonic 
Scapel. 
- Kiểm soát mạch máu: phẫu tích, cắt cuống 
mạch hồi manh tràng (cắt đại tràng phải) hoặc 
cuống mạch đại tràng sigma (cắt đại tràng 
sigma) tận gốc. 
- Di động đại tràng từ giữa ra bên. Đối với 
đại tràng phải, bộc lộ rõ tá tràng và di động đại 
tràng góc gan. 
- Cắt mạc treo đại tràng. Trong trường hợp u 
đại tràng phải, cắt bỏ một phần mạc treo đại 
tràng ngang và nhánh phải động mạch đại tràng 
giữa. Điều này giúp việc đưa đại tràng qua 
đường mổ nhỏ dễ dàng hơn. 
c. Thực hiện miệng nối ngoài cơ thể bằng kỹ 
thuật khâu nối tay. 
d. Khâu mạc treo và đóng vết mổ. Dẫn lưu 
nếu cần thiết 
Các biến số 
- Thời gian phẫu thuật. 
- Tai biến trong mổ, biến chứng sau mổ. 
- Tỉ lệ và nguyên nhân chuyển mổ mở. 
- Thời gian nằm viện. 
Các số liệu được thu thập theo một mẫu 
bệnh án thống nhất. Số liệu thu thập được quản 
lý và xử lý bằng phần mềm Excel. 
KẾT QUẢ 
Dịch tễ 
Trong thời gian nghiên cứu, có 22 bệnh nhân 
đáp ứng tiêu chuẩn chọn bệnh. Tỉ lệ nam/ nữ là 
0,75 (10 nam/12 nữ). Tuổi trung bình là 53 (từ 35 
cho đến 77 tuổi). Có 3/22 bệnh nhân đã được 
phẫu thuật ổ bụng trước đó, gồm 2 ca mổ mở và 
1 ca mổ nội soi. 
Lâm sàng 
Hầu như tất cả bệnh nhân nhập viện vì lý do 
đau bụng (19/22) hay thay đổi thói quen đi cầu 
(14/22). Có 6 trường hợp sờ được u bụng, tất cả 
đều là tổn thương ở đại tràng phải. Có 4 bệnh 
nhân nhập viện trong bệnh cảnh bán tắc ruột, 
được hồi sức nội khoa ổn định và phẫu thuật 
chương trình, gồm 1 ca u mỡ gây lồng ruột, 2 ca 
u lao hồi manh tràng và 1 ca ung thư đại tràng 
góc gan. 
TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG
2
6
6
4
14
19
0 5 10 15 20
Cận lâm sàng 
Kết quả cận lâm sàng cho thấy các bệnh 
nhân trong nhóm nghiên cứu có tổng trạng khá 
với chỉ số trung bình lần lượt là: Hct 35,7%, Alb 
42,5 g/L, CEA 5,3 ng/ml, CA19,9, 19,8 U/ml. 
Nội soi đại tràng được thực hiện trong 20/22 
trường hợp, 100% có kết quả sinh thiết phù hợp 
với giải phẫu bệnh lý sau mổ. Có 1 trường hợp 
lồng ruột, được mổ bán khẩn khi chưa có nội soi 
đại tràng, kết quả giải phẫu bệnh lý sau mổ là u 
mỡ của đại tràng phải. 
Kết quả phẫu thuật 
Thời gian mổ trung bình 115 phút. Tất cả đều 
thực hiện thành công qua nội soi một đường 
vào, gồm 17 ca cắt đại tràng phải và 5 ca cắt đại 
tràng sigma. Có 3 trường hợp cần thêm một 
trocar ở hố chậu phải để giúp phẫu tích, không 
cần phải chuyển qua nội soi cổ điển. Chúng tôi 
thực hiện single port tự chế (làm bằng găng tay 
phẫu thuật) trong 1 trường hợp. 
Có 9 trường hợp phải đặt dẫn lưu ổ bụng. 
Diễn tiến hậu phẫu ổn với thời gian trung tiện 
trở lại trung bình là 2 ngày. Thời gian nằm viện 
trung bình là 7,4 ngày. Có 1 trường hợp nhiễm 
trùng vết mổ nên thời gian nằm viện kéo dài (10 
ngày). Một trường hợp nhập viện lại sau 14 ngày 
vì có dấu hiệu bán tắc ruột, được điều trị nội 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 55
khoa ổn định. Có một bệnh nhân tử vong. Đây là 
trường hợp cắt đại tràng sigma, diễn tiến hậu 
phẫu ổn. Ngày thứ tư sau mổ, bệnh nhân đột tử 
do hít sặc. 
Trong 22 ca trong nhóm nghiên cứu, có 19 
trường hợp ung thư, 3 trường hợp u lành tính 
(2 ca u lao, 1 ca u mỡ). Tất cả các trường hợp 
ung thư đều có kết quả giải phẫu bệnh là ung 
thư biểu mô tuyến với mặt cắt không có tế bào 
ác tính (R0). 
Đối với các trường hợp ung thư, theo tiêu 
chuẩn chọn bệnh, chúng tôi chọn các khối u 
chưa ăn lan khỏi thanh mạc (<T4a), phân loại 
Dukes C. 
Phân giai đoạn Số BN 
TNM IIIa/IIIb/IIIc 1/16/2 
Dukes C 19 
Theo dõi sau mổ 
Chúng tôi theo dõi được 14/18 trường hợp 
ung thư trong nhóm nghiên cứu. Chỉ có 1 bệnh 
nhân không hóa trị hỗ trợ sau mổ. Tất cả đều còn 
sống không có dấu hiệu tái phát (free disease 
survival) tính đến thời điểm báo cáo nghiệm thu. 
Thời gian theo dõi trung bình là 22,5 tháng. 
BÀN LUẬN 
Trong phẫu thuật nội soi qui ước, 3 hoặc 4 
trocar được đưa qua đường rạch da nhỏ 5 – 
10mm. Tuy có kích thước nhỏ, nhiều vết mổ này 
vẫn có thể làm tăng nguy cơ tổn thương các tạng 
trong ổ bụng và tăng khả năng thoát vị sau mổ. 
Vì vậy, xu hướng chung là tăng cường giảm 
thiểu tối đa mức độ xâm hại của phẫu thuật nội 
soi, từ việc sử dụng các dụng cụ có kích thước 
nhỏ đến việc tận dụng đường vào qua các lỗ tự 
nhiên của cơ thể (NOTES) và gần đây nhất là áp 
dụng phẫu thuật nội soi một đường vào (SILS). 
Các phương pháp này giúp tăng hiệu quả thẫm 
mỹ, giảm đau sau mổ và giảm tỉ lệ biến chứng từ 
các vị trí vào trocar (tổn thương tạng, chảy máu, 
nhiễm trùng, thoát vị)(3). 
Cắt đại tràng nội soi là một phẫu thuật khó 
vì phải thực hiện nhiều giai đoạn: di động đại 
tràng, kiểm soát mạch máu, cắt nối ruột. Tuy 
nhiên, sau một thời gian áp dụng, cắt đại tràng 
nội soi ngày càng trở nên phổ biến vì có những 
lợi điểm của phẫu thuật ít xâm hại mà vẫn đảm 
bảo yêu cầu của phẫu trị ung thư. 
Phẫu thuật cắt đại tràng nội soi một đường 
vào được áp dụng khá trễ. Từ những báo cáo 
đầu tiên vào năm 2008, kỹ thuật này bắt đầu 
được thực hiện nhiều hơn, với nhiều biến đổi kỹ 
thuật thích hợp với các dụng cụ nội soi tiêu 
chuẩn thay vì phải sử dụng trocar và dụng cụ 
phẫu tích chuyên dụng. 
Trong phẫu thuật nội soi qui ước, dụng cụ 
phẫu tích và ống soi được đặt cách xa nhau, 
thường theo hình tam giác để tạo góc nhìn và 
phẫu trường rộng, cho phép phẫu thuật viên 
và người phụ mổ thao tác dễ dàng. Trong nội 
soi một đường vào, ống soi và dụng cụ phẫu 
tích đi song song với nhau, làm thu hẹp góc 
nhìn và làm giảm biên độ di động của các 
dụng cụ cả trong và ngoài ổ bụng, gây “va 
chạm” khi thao tác. Để tái lập một phần “bố trí 
tam giác” như trong phẫu thuật nội soi qui 
ước, người ta dùng các dụng cụ phẫu tích gập 
góc được và các loại ống soi mềm, có khi phải 
phẫu tích “chéo tay”(3). 
Những khó khăn kỹ thuật trong phẫu thuật 
nội soi một đường vào càng rõ rệt hơn khi cắt đại 
tràng. Bởi vì, khác với cắt túi mật hoặc cắt ruột 
thừa chỉ thao tác ở 1 vùng trong ổ bụng, cắt đại 
tràng phải thao tác ở phạm vi rộng hơn: từ hố 
chậu, hông lưng đến hạ sườn khi di động đại 
tràng. Ngoài ra, việc đảm bảo cắt rộng để diện 
cắt an toàn và tránh căng miệng nối cũng là 
những yêu cầu quan trọng, góp phần làm tăng 
thêm thử thách trong cắt đại tràng nội soi một 
đường vào. 
Theo tiêu chuẩn được chấp nhận hiện nay, 
phẫu thuật nội soi một đường vào bao gồm 3 
nhóm: (1) sử dụng một trocar chuyên dụng có 
nhiều kênh thao tác, (2) sử dụng 1 găng phẫu 
thuật qua đó các dụng cụ nội soi được đưa vào 
qua các ngón tay găng, (3) sử dụng nhiều trocar 
thông thường đưa qua một đường mổ nhỏ. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 56
Tại Việt Nam, các trocar nhiều kênh thao tác 
và dụng cụ gập góc chuyên dụng có giá thành 
cao, mau hỏng nên ít được sử dụng rộng rãi. Mặt 
khác, việc thực hiện miệng nối sau khi cắt đại 
tràng nội soi thường được thực hiện ngoài cơ thể 
nhằm hạn chế sử dụng dụng cụ khâu nối ruột 
(stapler), giúp giảm chi phí phẫu thuật. Vì vậy, 
chúng tôi lựa chọn kỹ thuật dùng nhiều trocar 
thông thường đưa qua đường mổ nhỏ. Chúng 
tôi nhận thấy kỹ thuật này tạo thêm khoảng 
không giữa các trocar, giúp tái lập phần nào 
“phân bố tam giác” như trong phẫu thuật nội soi 
qui ước, giảm thiều sự “va chạm” giữa các dụng 
cụ phẫu tích. Trong 1 trường hợp duy nhất, 
chúng tôi sử dụng “single port” cải biên từ găng 
tay. Tuy nhiên, các dụng cụ phẫu tích không có 
“điểm tựa” nên gây “rung động” và làm phẫu 
thuật viên mau mỏi tay(4,7). 
Có 3 trường hợp chúng tôi phải sử dụng 
thêm 1 trocar để người phụ mổ hỗ trợ phẫu tích, 
bao gồm 1 trường hợp khối u to ở đại tràng phải, 
2 trường hợp lồng ruột. Theo S.Woo Lim, sử 
dụng thêm 1 trocar trong phẫu thuật nội soi một 
đường vào có thể chấp nhận được, không cần 
phải chuyển sang nội soi qui ước(6). 
So sánh với các nghiên cứu cắt đại tràng nội 
soi một đường vào đã được báo cáo khác, chúng 
tôi nhận thấy các chỉ số về kết quả sớm sau phẫu 
thuật (như thời gian mổ, tỉ lệ biến chứng, tỉ lệ 
chuyển mổ mở hoặc sang nội soi qui ước) không 
khác biệt rõ(8,1). 
Nghiên cứu Phẫu thuật 
cắt đại tràng 
Vết mổ 
(cm) 
LOS 
(days) 
Số hạch Thời gian mổ Chuyển mổ/ 
Thêm trocar 
Biến chứng 
Keshava 2010 Phải 4 (3-6) 5 17 105 (85-140) 0 27,3 
Boni 2010 Phải 4 2,6 24 145 (110-172) 0 5,6 
Ramos-Valadez 
 2011 
Sigma 3,3 159 5% (LAC) 10 
VanDen Boezen 
2011 
Phải, sigma 
Cắt trước thấp 
3 130 4% (LAC) 4% 18 
Chew/2011 Phải 
Cắt trước thấp 
5 (3-10) 6 17 85 (45-150) 4,8% (LAC) 
36,4% 
18,2 
Chen/2011 Phải 4 
(3-6) 
5 19,5 175 
(145-280) 
16,7% 
(LAC & open) 
16,6 
Ross/2011 Phải 
Sigma 
4,2 6 20 120 
(68-210) 
5,15 (open) 
7,7% 
7,7 
Gash/2011 Phải 
Cắt trước thấp 
2 110 
(45-240) 
10% (LAC) 20 
Chúng tôi/2011 Phải 
Sigma 
5,3 
(3-10) 
7,4 115 
(70-150) 
0 
13,6% 
9 
KẾT LUẬN 
So với phẫu thuật nội soi qui ước, cắt đại 
tràng nội soi qua một vết rạch da có kỹ thuật khó 
hơn nhưng có thể được áp dụng an toàn với 
phẫu thuật viên có kinh nghiệm và được huấn 
luyện tốt. Kết quả ngắn hạn chưa thấy khác biệt 
so với mổ nội soi qui ước. Tuy nhiên, chúng tôi 
cần nghiên cứu thêm để có số liệu lâm sàng 
nhiều hơn và đạt thời gian theo dõi dài hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 
1. Bucher P, Pugin F, Morel P (2008). “Single port access 
laparoscopic right hemicolectomy”. Int J Colorectal Dis 23:1013-
1016. 
2. Bùi Tuấn Anh và cộng sự (2010). Kết quả bước đầu phẫu 
thuật nội soi đại trực tràng qua 128 trường hợp tại bệnh viện 
103. Y học TP. Hồ Chí Minh; 14 (phụ bản của số 4):97-100. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 57
3. Fung AKY, Aly EH (2012). “Systematic review of single-
incision laparoscopic colonic surgery”. British Journal of 
Surgery; 99: 1353-1364 
4. Lê Quang Nghĩa, Hoàng Vĩnh Chúc, Nguyễn Tạ Quyết 
(2010). Cắt đại tràng qua nội soi ổ bụng. Y học TP. Hồ Chí 
Minh; 14 (phụ bản của số 1), Hội nghị khoa học kỹ thuật Bệnh 
viện Bình Dân: 223-230. 
5. Lim SW, J KimH, Kim CH, Huh JW, Kim YJ, Kim HR (2012). 
“Umbilical incision laparoscopic colectomy with one 
additional port for colorectal cancer.” Tech Coloproctol. DOI 
10.1007/S10151-012-0900. 
6. Mufty H, Hillewaere S, Appeltans B, Houben B (2012). 
“Single-incision right hemicolectomy for malignancy: a 
feasible technique with standard laparoscopic 
instrumentation”. Colorectal Disease; 14: e764-770. 
7. Nguyễn Hoàng Bắc, Nguyễn Hữu Thịnh (2003): Phẫu thuật 
nội soi cắt đại tràng do ung thư: Kinh nghiệm một phẫu thuật 
viên. Hội thảo chuyên đề hậu môn- trực tràng Tp.HCM. 
11:160-165. 
8. Nguyễn Minh Hải, Lâm Việt Trung (2010). Phẫu thuật đại 
trực tràng qua nội soi ổ bụng. Y học TP. Hồ Chí Minh; 14 (phụ 
bản của số 2):177-181. 
9. Nguyễn Văn Hải và cộng sự (2010). Kết quả sớm của cắt đại 
tràng nội soi trong ung thư đại tràng. Y học TP. Hồ Chí Minh; 
14 (phụ bản của số 4):20-24. 
Ngày nhận bài báo: 31/10/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 20/02/2014