Động mạch không phải là những 
ống dẫn máu thụ động, ngược lại, 
nó đóng vai trò quan trọng cho việc 
phân phối máu đến tổ chức. Trong 
thành động mạch có những sợi cơ 
trơn khiến cho nó có khả năng chun 
giãn. Các sợi cơ trơn này lại chịu 
sự chi phối của hệ thần kinh thực 
vật, đồng thời nó còn chịu ảnh 
hưởng của các chất trong máu qua 
cơ chế thể dịch.
              
                                            
                                
            
 
            
                 15 trang
15 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Sinh lý học tim mạch (sinh lý hệ mạch-3), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sinh lý học tim mạch 
(sinh lý hệ mạch-3) 
2.6. Điều hòa tuần hoàn động 
mạch 
Động mạch không phải là những 
ống dẫn máu thụ động, ngược lại, 
nó đóng vai trò quan trọng cho việc 
phân phối máu đến tổ chức. Trong 
thành động mạch có những sợi cơ 
trơn khiến cho nó có khả năng chun 
giãn. Các sợi cơ trơn này lại chịu 
sự chi phối của hệ thần kinh thực 
vật, đồng thời nó còn chịu ảnh 
hưởng của các chất trong máu qua 
cơ chế thể dịch. 
2.6.1. Điều hòa tuần hoàn tại chỗ 
 Nhằm đảm bảo hai chức năng : 
-Khi yêu cầu được tưới máu của 
các cơ quan là hằng định, thì sự tự 
điều hòa nhằm đảm bảo một sự 
cung cấp máu không đổi cho dù áp 
lực động mạch thay đổi. 
-Sự tưới máu được thực hiện theo 
yêu cầu. Khi hoạt động, chẳng hạn 
ở cơ vân hoặc cơ tim, sự tưới máu 
có thể tăng gấp nhiều lần so với lúc 
nghỉ ngơi. 
Sự giãn cơ trơn ở các tiểu động 
mạch tùy thuộc vào lưu lượng máu. 
Khi lưu lượng máu giảm, cơ trơn 
giãn và sự giãn mạch xảy ra. Khi áp 
suất truyền vào mạch tăng khiến 
mạch căng giãn gây nên một sự co 
rút phản ứng, do cơ trơn thành 
mạch khi bị căng thì co lại. 
Các bạch cầu, tiểu cầu, tế bào cơ 
trơn thành mạch, tế bào nội mạc 
mạch máu có thể tổng hợp và 
phóng thích nhiều yếu tố vận mạch. 
Một yếu tố quan trọng nhất là 
EDRF (endothelium-derived 
relaxation factor) gây giãn mạch, 
được biết chính là chất khí mang 
tín hiệu NO trong những năm gần 
đây. Những chất giãn mạch khác là 
ion H+ và K+ , chất chuyển hóa như 
lactate và adenosine. Chất gây co 
mạch bao gồm thromboxane A2, 
prostaglandin F, gốc superoxide, 
angiotensin và endothelin. Một khi 
được phóng thích, chất gây giãn 
mạch làm giãn tại chỗ tiểu động 
mạch và giãn cơ thắt tiền mao 
mạch, làm tăng dòng máu đi qua 
mô, và đưa mức oxy ở mô về bình 
thường. Chất co mạch có tác dụng 
ngược lại. Những kích thích làm 
giải phóng các chất vận mạch bao 
gồm nồng độ oxy, CO2 ở mô, các 
homon chung và homon địa 
phương. 
2.6.2. Điều hòa tuần hoàn bởi hệ 
thần kinh 
-Trung tâm tim mạch 
Gồm một nhóm tế bào thần kinh 
trong hành não có chức năng điều 
hòa hoạt động tim và huyết áp. Từ 
các dây thần kinh này, xung động 
đi xuống tủy sống theo các sợi tiền 
hạch giao cảm, từ đó đi ra ngoại 
biên bằng những sợi sau hạch để 
đến cơ trơn mạch máu. Ở trạng thái 
bình thường, luôn có những tín 
hiệu giao cảm từ trung tâm vận 
mạch xuống mạch, làm mạch hơi 
co lại tạo trương lực mạch. 
Khi những tín hiệu giao cảm tăng, 
gây co mạch và tăng huyết áp, gây 
co tĩnh mạch, tăng lưu lượng tim. 
Ngược lại, nếu giảm các tín hiệu 
này đến mạch thì mạch giãn, huyết 
áp hạ, tăng dự trữ máu ở hệ tĩnh 
mạch. 
- Những chất cảm thụ áp suất 
(Baroreceptors) 
Là những chất cảm thụ với thay đổi 
áp suất, có ở thành động mạch lớn, 
tĩnh mạch và nhĩ phải điều hòa 
huyết áp. Ba hệ thống điều hòa 
ngược quan trọng nhất mà các thụ 
thể này tham gia là phản xạ động 
mạch chủ, xoang động mạch cảnh 
và phản xạ tim phải (phản 
xạBainbridge). 
Khi áp suất ở quai động mạch chủ 
và xoang động mạch cảnh tăng, 
xung động từ những chất cảm thụ 
này sẽ theo dây thần kinh IX, X về 
hành não, ức chế vùng co mạch làm 
giảm xung ra ngoại biên gây giãn 
mạch, huyết áp giảm, đồng thời 
kích thích dây X làm tim đập chậm. 
Khi áp suất giảm thì có tác dụng 
ngược lại, nghĩa là giảm các xung 
động từ các chất thụ cảm, giảm sự 
ức chế trung tâm vận mạch, tăng tín 
hiệu giao cảm ra ngoại biên gây co 
mạch và tăng huyết áp, đồng thời 
giảm kích thích dây X làm tim đập 
nhanh(Hình 11). 
Phản xạ Bainbridge tương tự như 
đã trình bày ở phần điều hoà tần số 
tim. 
-Những chất cảm thụ hóa học 
(chemoreceptors) 
Là những chất cảm thụ nhạy cảm 
với sự thay đổi PO2, PCO2 và pH 
máu, khu trú ở quai động mạch chủ 
và xoang động mạch cảnh. 
Khi PO2 trong máu động mạch 
giảm, các receptor này bị kích 
thích, sẽ truyền xung động về hành 
não, kích thích vùng co mạch gây 
co mạch ngoại biên và tăng huyết 
áp. Tương tự như vậy khi 
PCO2 tăng và pH giảm. 
Hình 11 : Hệ thần kinh thực vật chi 
phối tim và phản xạ baroreceptor 
giúp điều hòa huyết áp 
- Hệ thần kinh thực vật 
Từ trung tâm tim mạch ở hành não, 
xung động truyền ra theo các sợi 
giao cảm và phó giao cảm đến tim 
và mạch máu. Hệ giao cảm đóng 
vai trò quan trọng trong điều hòa 
tuần hoàn của hệ thần kinh thực 
vật. Trong khi đó, hệ phó giao cảm 
thì quan trọng cho chức năng tim. 
+ Hệ thần kinh giao cảm: các sợi 
giao cảm gây co mạch ở các động 
mạch, tiểu động mạch, tĩnh mạch. 
Chất hóa học trung gian là 
norepinephrin, hoạt động trực tiếp 
lên các a receptor của cơ trơn mạch 
máu gây co mạch. Đồng thời sự 
kích thích giao cảm còn khiến tủy 
thượng thận tiết epinephrin và 
norepinephrin vào máu gây co 
mạch, nhưng một vài nơi, 
epinephrin gây giãn mạch do tác 
dụng kích thích b receptor. Thêm 
vào đó, một vài sợi giao cảm đến 
mạch máu cơ vân là sợi 
cholinergic, chúng phóng thích 
acetylcholin gây giãn mạch. 
+ Hệ thần kinh phó giao cảm 
: vai trò nhỏ trong điều hòa tuần 
hoàn động mạch Tác dụng chủ yếu 
là kiểm soát nhịp tim do các dây X 
đến tim gây giảm nhịp tim. Chất 
dẫn truyền thần kinh là acetylcholin 
(Hình 11). 
2.6.3. Điều hòa áp suất máu bởi 
hệ thống hormon 
- Các chất gây co mạch 
+Norepinephrin : co mạch mạnh 
do tác dụng lên a receptor 
+Epinephrin : gây co mạch ở nồng 
độ cao tác dụng lên a receptor, ở 
nồng độ thấp gây giãn mạch (tác 
dụng lên b receptor) 
Hai homon trên được sản sinh từ 
tủy thượng thận chủ yếu gây tăng 
lưu lượng tim (do tăng tốc độ và 
sức co của tim), co tiểu động mạch 
và tĩnh mạch đến da, các tạng ở 
bụng nhưng gây giãn tiểu động 
mạch ở cơ tim và cơ vân. 
+Hệ Renin-Angiotensin-aldoterone 
(RAA) : khi thể tích máu giảm hoặc 
lưu lượng máu đến thận giảm, các 
tế bào cạnh cầu thận tăng phóng 
thích renin vào máu. Renin tác 
động và chuyển angiotensinogen 
thành angiotensin I. Chất này qua 
mao mạch phổi, một enzyme 
chuyển là angiotensin converting 
enzyme (ACE) chuyển nó thành 
angiotensin II gây co mạch mạnh, 
đặc biệt ở các tiểu động mạch, làm 
tăng sức cản ngoại biên toàn bộ và 
làm tăng huyết áp. Đồng thời, kích 
thích bài tiết aldoterone, tăng tái 
hấp thu ion Na+ và giữ nước, làm 
tăng thể tích máu toàn bộ và tăng 
huyết áp. 
+Vasopressin (ADH : antidiuretic 
hormone) : được sản sinh ở vùng 
dưới đồi và giải phóng từ thùy sau 
tuyến yên. Bình thường chỉ tiết rất 
ít trong máu. Khi xuất huyết nặng, 
nồng độ vasopressin tăng cao gây 
tăng huyết áp động mạch để đưa 
huyết áp về trị số bình thường. 
- Các chất gây giãn mạch 
+Nhóm Kinin : bradykinin huyết 
tương và lysilbradykinin trong mô, 
tác dụng giãn các tiểu động mạch, 
làm tăng tính thấm mao mạch, thu 
hút bạch cầu, làm tăng lượng máu 
đến mô. 
+Prostaglandin : có ở hầu hết các 
tổ chức, mặc dù có một vài 
prostaglandin gây co mạch nhưng 
phần lớn gây giãn mạch. 
+Histamin : có ở hầu hết các mô, 
có tác dụng giãn mạch, tăng tính 
thấm thành mạch, do đó làm giảm 
huyết áp. 
+ANP (ANF : atrial natriuretic 
peptide hay factor) : do tâm nhĩ bài 
tiết gây hạ huyết áp do tác dụng 
giãn cơ trơn thành mạch, giảm sức 
cản ngoại biên, đồng thời tăng thải 
muối nước qua nước tiểu, gây giảm 
thể tích máu. Sự bài tiết ANP phụ 
thuộc vào khối lượng máu cơ thể, 
khi tăng lượng máu trong nhĩ, áp 
suất tâm nhĩ tăng và tăng tiết ANP. 
Ngược lại, khi áp suất tâm nhĩ hạ 
thì sự bài tiết ANP giảm. 
+Parathyroid hormon (PTH) và 
calcitriol : hai hormon này điều hòa 
nồng độ Canxi và phosphate máu ( 
Ca2+, HPO4-), nhưng cũng ảnh 
hưởng đến cơ trơn mạch máu. PTH 
gây giãn mạch, làm giảm áp lực 
máu, trong khi đó calcitriol gây co 
mạch, làm tăng huyết áp. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 sinh_ly_hoc_tim_ma12_1565.pdf sinh_ly_hoc_tim_ma12_1565.pdf