Mục tiêu: Khảo sát tính an toàn, hiệu quả và ưu nhược điểm của mặt nạ thanh quản Proseal so với phương
pháp đặt nội khí quản trong gây mê phẫu thuật cấp cứu.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, phân tích, can thiệp lâm sàng. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên
160 bệnh nhân chia thành 2 nhóm ngẫu nhiên gây mê mặt nạ thanh quản Proseal và gây mê nội khí quản.Thu
thập các số liệu: tuổi, giới tính, chỉ số BMI, các bệnh kèm theo, tỷ lệ đặt thành công, mạch, huyết áp, SpO2, EtCO2,
áp lực đường thở cùng với các tai biến, biến chứng trong quá trình gây mê và sau mổ.
Kết quả: Tỷ lệ đặt thành công 100%(lần đầu 90,90%, lần hai 9,10%), thời gian đặt trung bình 26,05 giây.
Các nghiệm pháp xác định vị trí phát hiện đặt sai 6 trường hợp và tất cả điều chỉnh thành công. Không khác biệt
về hiệu quả thông khí giữa 2 nhóm. Nhóm mặt nạ thanh quản Proseal ổn định huyết động hơn nhóm nội khí quản
nhất là giai đoạn đặt và rút dụng cụ. Không trường hợp xảy ra trào ngược và hít sặc. Không ghi nhận các tai biến
biến chứng liên quan đến các nhóm nghiên cứu.
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 958 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu So sánh hiệu quả mặt nạ thanh quản proseal và nội khí quản trong gây mê phẫu thuật cấp cứu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước khi bơm nhưng nằm 
trong giới hạn cho phép, kết quả này cũng tương 
tự với các tác giả khác(7,17). 
Sp02 giữa hai nhóm PLMA: 98,6 ± 0,7% và 
nhóm NKQ: 98,8 ± 0,9%, khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê với P > 0,05 (bảng 7). SpO2 luôn 
luôn dao động từ 98% đến 100%, chỉ riêng tại 
thời điểm sau khi rút 1 phút SpO2 có thấp hơn, 
nhưng nằm trong giới hạn cho phép > 95%. 
Nhưng sau rút 5 phút thì SpO2 của 2 nhóm trở về 
bình thường PLMA cao hơn nhóm NKQ một ít, 
do sau rút thì nhóm PLMA ít kích thích vùng 
vẫy hơn, nên thở tốt hơn. Kết quả này cũng 
tương tự với Maltby(13). Như vậy cho thấy hiệu 
quả thông khí của PLMA và NKQ là như nhau. 
EtCO2 giữa hai nhóm PLMA và NKQ khác 
biệt nhau không có ý nghĩa thống kê với p>0.05. 
Tuy nhiên sau bơm thán khí, EtCO2 của cả 2 
nhóm tăng lên có ý nghĩa thống kê so với trước 
khi bơm hơi. Sự giảm trao đổi khí trong quá 
trình gây mê cũng là 1 yếu tố làm ưu thán. Vì 
vậy thông khí kiểm soát với áp lực dương có thể 
cải thiện phần nào tình trạng này. Theo nghiên 
cứu của Dubecz S Jr và cộng sự(6) bệnh nhân cắt 
túi mật nội soi có bơm thán khí không có tiền sử 
tim mạch và hô hấp thì thấy có tăng EtCO2 sau 
khi bơm thán khí vào ổ bụng, và tác giả cũng cho 
rằng nên tăng thông khí để ngăn ngừa tình trạng 
ưu thán. Tuy nhiên tác giả không đề cập cụ thể 
tăng bao nhiêu để bù trừ. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi bệnh nhân được thông khí kiểm soát, 
thể tích khí lưu thông tăng từ 10ml/kg/phút lên 
đến 12ml/kg/phút vì thế EtCO2 dao động trong 
khoảng 30-40 mmHg. 
Tai biến, biến chứng 
Trào ngược và hít sặc là một biến chứng rất 
nghiêm trọng, có thể đe dọa đến tính mạng 
người bệnh, đây là vấn đề mà nhiều tác giả và 
các nhà gây mê quan tâm đến. Theo thống kê 
của Brimacombe và Brain vào năm 1996 nhận 
thấy tỷ lệ hít sặc liên quan tới gây mê toàn diện 
là 1.4 – 1.6/10000, trong số này tỷ lệ tử vong xấp 
xỉ 5%, một nghiên cứu khác trên 215488 bệnh 
nhân gây mê toàn diện (không dùng LMA cổ 
điển) nhận thấy tỷ lệ hít sặc chiếm 11/10000 ở 
nhóm phẫu thuật cấp cứu, 2.6/10000 ở nhóm 
phẫu thuật theo kế hoạch như vậy cho chúng ta 
thấy tỷ lệ hít sặc ở bệnh nhân phẫu thuật cấp cứu 
cao gấp 4 lần so với phẫu thuật theo kế hoạch. 
Theo tổng kết của Brimacombe, Keller(9) cho thấy 
trên 150 triệu bệnh nhân có dùng LMA cổ điển 
thì tỷ lệ trào ngược là 0,02% trong số đó tỷ lệ tử 
vong là 5%, theo Cook(5) tỷ lệ trào ngược đối với 
LMA cổ điển là từ 1-4/11.000, còn P-LMA là 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 239
1/200.000 – 2/200.000. Như vậy qua thống kê của 
các tác giả trên cho thấy tỷ lệ viêm phổi hít thấp, 
nhưng đây là biến chứng rất nguy hiểm trong 
gây mê. Trong nghiên cứu của chúng tôi không 
phát hiện trường hợp nào trào ngược hay hít sặc 
qua phương pháp đo pH mặt nạ thanh quản và 
theo dõi các dấu hiệu lâm sàng. Điều này có lẽ 
thứ nhất là do chúng tôi chọn mẫu rất kĩ lưỡng, 
tất cả bệnh nhân đều phải nhịn ăn uống > 6 giờ 
và không có thêm yếu tố nguy cơ trào ngược 
như: mang thai, tắc ruột, tiền căn trào ngược dạ 
dày thực quản, thoát vị hoành, Vả lại chúng tôi 
rất thận trọng trong việc xác định đúng vị trí mặt 
nạ thanh quản sau khi đặt. 
Tổn thương niêm mạc chảy máu khi dùng 
PLMA trong nghiên cứu của Brimacombe và 
Kihara(10) là 10,2% trong khi của chúng tôi là 5/80 
(6,3%) nhiều hơn so với nhóm nội khí quản 4/80 
(5,0%) (bảng 8). Tuy nhiên các trường hợp này 
đều là do đặt đi đặt lại nhiều lần. Do đó tai biến 
này sẽ giảm dần khi kỹ thuật thành thạo 
Kích thích vùng vẫy khi rút dụng cụ: so với 
nội khí quản tỷ lệ kích thích 100% trước khi rút 
dụng cụ thì ở nhóm PLMA chỉ có 11,3% (bảng 8). 
Điều này cho thấy đặt mặt nạ thanh quản hồi 
tỉnh êm ái hơn rất nhiều so với đặt nội khí quản 
là điều không thể chối cãi được. 
Đau họng là biến chứng thường gặp sau gây 
mê có thể là do tổn thương niêm mạc lúc đặt 
dụng cụ, hoặc do bóng hơi chèn ép lên niêm 
mạc. Trong nghiên cứu của chúng tôi, đau họng 
ở nhóm P-LMA là 5/80 (6,3%), nhóm NKQ là 
31/80 (38,8%) (bảng 8). Higgins(8) gặp trong nhóm 
P-LMA 23/69 (33,33%), nhóm NKQ 37/69 
(53,62%). Kết quả của chúng tôi và của Higgins 
cho thấy tỷ lệ đau họng ở nhóm NKQ cao hơn 
nhiều với p<0,05 có ý nghĩa thống kê. 
Khàn tiếng trong gây mê là do dây thanh 
âm bị phù nề hoặc tổn thương lúc đặt NKQ 
hoặc mặt nạ thanh quản(17). Khàn tiếng cũng có 
thể là do bơm bóng hơi căng quá gây nên 
thiếu máu niêm mạc và vùng dây thanh âm bị 
chèn ép hoặc do kỹ thuật đặt thô bạo, thường 
gặp trong nhóm đặt NKQ là chính do tác động 
trực tiếp. Trong nghiên cứu của chúng tôi 
khàn tiếng sau phẫu thuật ở nhóm đặt NKQ là 
7 trường hợp (bảng 8) gồm 3 khàn tiếng nhẹ 
(24 giờ sau hết khàn), 4 khàn tiếng vừa (khi 
xuất viện vẫn còn khàn tiếng nhưng có đỡ 
hơn), còn ở nhóm đặt P-LMA thì không có 
trường hợp khàn tiếng (0%), kết quả này cũng 
tương tự tác giả Lê Tuyên Hồng Dương(11). 
KẾT LUẬN 
Trong phẫu thuật cấp cứu, thường bệnh 
nhân nằm trong bệnh cảnh nhiễm trùng, sốc 
nhiễm trùng hay thiếu khối lượng tuần hoàn, rất 
dễ đưa đến các biến chứng về tim mạch, hô hấp, 
rối loạn đông máu, suy chức năng gan, thận 
Điều này cũng chính là thách thức cho những 
người làm công tác gây mê hồi sức phải nắm 
vững, tuân thủ những nguyên tắc căn bản, chọn 
lựa phương pháp vô cảm hợp lý, dùng những 
dược chất thích hợp cho từng loại bệnh lý, ít làm 
xáo trộn chức năng sinh lý của các cơ quan. 
Qua nghiên cứu sử dụng mặt nạ Proseal 
trong phẫu thuật cắt ruột thừa nội soi, chúng tôi 
rút ra được những kết luận sau: Kỹ thuật đặt mặt 
nạ thanh quản Proseal đơn giản, dễ thực hiện, 
thời gian đặt nhanh và có tỷ lệ thành công cao; 
Phương pháp gây mê toàn diện qua mặt nạ 
thanh quản Proseal đạt hiệu quả thông khí tốt 
như phương pháp đặt nội khí quản; Ổn định 
huyết động hơn ở nhóm đặt mặt nạ thanh quản 
so với đặt nội khí quản; Rất ít xảy ra trào ngược, 
hít sặc; Giảm các tai biến biến chứng trong và 
sau phẫu thuật hơn so với đặt nội khí quản; Chất 
lượng hồi tỉnh tốt vì thế bệnh nhân dễ chấp nhận 
hơn so với nội khí quản. Như vậy, phương pháp 
gây mê toàn diện qua mặt nạ thanh quản Proseal 
có tính an toàn và hiệu quả trong phẫu thuật cấp 
cứu nếu chúng ta tôn trọng đúng nguyên tắc 
trong gây mê. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abdel El-Ganzouri, Michail N Avramov, Stefan Budac, Mario 
Moric and Kenneth J Tuman (2003). "Proseal laryngeal mask 
airway versus endotracheal tube: ease of insertion, 
hemodynamic responses and emergence characteristics". 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 240
Anesthesiology; 99, A571 
2. Archie Brain IJ. et al (1997). "History and Physiological 
implication. The Laryngeal Mask Airway." WB Sauders 
Company Limited, pp2-34 
3. Brimacombe J (2004). "LMA-Proseal an analysis of current 
knowledge and a complete practical guide". The Laryngeal 
Mask Company Limited: pp 2-104 
4. Brimacombe J, Keller C, Judd DV. (2004). "Gum elastic bougie-
guided insertion of the ProSeal laryngeal mask airway is 
superior to the digital and introducer tool techniques". 
Anesthesiology; 100 (1): pp 25-29 
5. Cook TM, Lee G, Nolan JP. (2005). "The ProSeal laryngeal 
mask airway: a review of the literature". Can J Anaesth; 52 (7): 
pp 739-760. 
6. Dubecz S Jr, Pianim N, Se-Yuan L, Klein S, Bongard F. (1992). 
"Laparoscopic surgery with carbon dioxide insufflation causes 
respiratory acidosis". Acta Chir Hung; 33 (1-2): pp 93-100 
7. Fabregat-López J, Garcia-Rojo B, Cook TM. (2008). "A case 
series of the use of the ProSeal laryngeal mask airway in 
emergency lower abdominal surgery". Anaesthesia; 63 (9): pp 
967-971 
8. Higgins PP, Chung F, Mezei G. (2002). "Postoperative sore 
throat after ambulatory surgery". Br J Anaesth; 88 (4): pp 582-
584 
9. Keller C, Brimacombe J, Bittersohl J, Lirk P, von Goedecke A 
(2004). "Aspiration and the laryngeal mask airway: three cases 
and a review of the literature". Br J Anaesth; 93 (4): pp 579-582 
10. Kihara S, Brimacombe JR, Yaguchi Y, Taguchi N, Watanabe S 
(2004). "A comparison of sex- and weight-based ProSeal 
laryngeal mask size selection criteria: a randomized study of 
healthy anesthetized, paralyzed adult patients". 
Anesthesiology; 101 (2): pp 340-343 
11. Lê Tuyên Hồng Dương, Nguyễn Hữu Tú (2006). “Liên quan 
giữa cỡ ống nội khí quản với biến chứng đau họng và khàn 
tiếng sau mổ”. Kỹ yếu công trình nghiên cứu khoa học, Hội 
nghị gây mê toàn quốc Hải Phòng 11/2006: tr 161. 
12. Lê Văn Nghĩa, Nguyễn Thế Hưng (2006). “Phẫu thuật nội soi 
điều trị viêm phúc mạc ruột thừa”. Y học TP. Hồ Chí Minh, 
10(1): pp 430-434. 
13. Maltby JR, Beriault MT, Watson NC, Liepert D, Fick GH 
(2002). "The LMA-ProSeal is an effective alternative to tracheal 
intubation for laparoscopic cholecystectomy". Can J Anaesth; 
49 (8): pp 857-862 
14. Nguyễn Văn Chừng (2004). "Gây mê hồi sức để mổ nội soi ổ 
bụng". Trong: Gây mê hồi sức, Nhà xuất bản Y Học: 141-148. 
15. Nguyễn Văn Chừng, Nguyễn Văn Sách, Trương Triều Phong 
(2009). "Đánh giá hiệu quả mặt nạ thanh quản Proseal trong 
phẫu thuật cấp cứu". Y học Thành Phố Hồ Chí Minh; 13 (1): 
461-467. 
16. Oczenski W et al (1999). "Hemodynamic and catecholamine 
stress responses to insertion of the combitube, laryngeal mask 
airway or tracheal intubation". Anesth Analg; 88: pp 1389-
1394. 
17. Sakles JC, Laurin EG, Rantapaa AA, Panacek EA (1998). 
Airway management in the emergency department: a one – 
year study of 610 tracheal intubations. J Emerg Med, 3: 325 – 
332. 
18. Takahashi S, Mizutani T, Miyabe M and Toyooka H (2002). 
"Hemodynamic responses to tracheal intubation with 
laryngoscope versus lightwand intubating device (Trachlight) 
in adults with normal airway". Anesth Analg; 95 (2): pp 480-
484. 
Ngày nhận bài báo: 05/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 20/02/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 232_240_5663.pdf 232_240_5663.pdf