Mục tiêu: Đánh giá vi kẽ ở thành nướu của xoang trám loại II sử dụng hệ thống composite răng sau một
khối có và không có lớp lót composite lỏng và so sánh mức độ vi kẽ ở thành nướu của lỗ trám composite loại II
giữa 2 nhóm này.
Phương pháp: Nghiên cứu in vitro trên ba mươi răng cối nhỏ vĩnh viễn nguyên vẹn. Xoang trám loại II
được sửa soạn dạng hộp với kích thước: chiều ngoài trong 4mm; chiều gần xa 1,5 mm; chiều nhai nướu 4 mm,
thành nướu trên đường nối men‐xê măng tối thiểu 1 mm. Chia ngẫu nhiên ba mươi răng thành 2 nhóm (n=15),
nhóm 1 trám trực tiếp với composite răng sau một khối Tetric® N‐Ceram Bulk Fill, nhóm 2 trám tương tự nhóm
1 và được lót bằng composite lỏng Tetric N‐Flow. Các răng được trải qua 100 chu kỳ nhiệt tại 2 điểm nhiệt là
550C và 50C, thời gian ngưng tại mỗi điểm nhiệt là 25 giây, thời gian chuyển đổi là 5 giây. Sau đó, các răng được
trám bít chóp và thoa vecni toàn bộ trừ phục hồi và 1mm mô răng quanh phục hồi để chuẩn bị cho quá trình
nhuộm xanh methylene 2% trong 24 giờ. Cuối cùng, chia đôi các răng theo chiều gần xa dọc qua phục hồi và
quan sát đánh giá sự thâm nhập dung dịch nhuộm dưới kính hiển vi nổi X30. Số liệu thu thập được nhập vào
Excel 2007 và xử lý bằng phần mềm SPSS IBM 20. Sử dụng phép kiểm định phi tham số U – Mann Whitney
cho hai mẫu độc lập
              
            Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt  371
SO SÁNH VI KẼ TRÊN XOANG LOẠI II SỬ DỤNG COMPOSITE RĂNG 
SAU MỘT KHỐI CÓ VÀ KHÔNG CÓ LỚP LÓT COMPOSITE LỎNG 
Cao Ngọc Khánh*, Đinh Thị Khánh Vân*, Bùi Huỳnh Anh* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá vi kẽ ở thành nướu của xoang trám loại II sử dụng hệ thống composite răng sau một 
khối có và không có lớp lót composite lỏng và so sánh mức độ vi kẽ ở thành nướu của lỗ trám composite loại II 
giữa 2 nhóm này. 
Phương pháp: Nghiên cứu in vitro trên ba mươi răng cối nhỏ vĩnh viễn nguyên vẹn. Xoang trám loại II 
được sửa soạn dạng hộp với kích thước: chiều ngoài trong 4mm; chiều gần xa 1,5 mm; chiều nhai nướu 4 mm, 
thành nướu trên đường nối men‐xê măng tối thiểu 1 mm. Chia ngẫu nhiên ba mươi răng thành 2 nhóm (n=15), 
nhóm 1 trám trực tiếp với composite răng sau một khối Tetric® N‐Ceram Bulk Fill, nhóm 2 trám tương tự nhóm 
1 và được lót bằng composite lỏng Tetric N‐Flow. Các răng được trải qua 100 chu kỳ nhiệt tại 2 điểm nhiệt là 
550C và 50C, thời gian ngưng tại mỗi điểm nhiệt là 25 giây, thời gian chuyển đổi là 5 giây. Sau đó, các răng được 
trám bít chóp và thoa vecni toàn bộ trừ phục hồi và 1mm mô răng quanh phục hồi để chuẩn bị cho quá trình 
nhuộm xanh methylene 2% trong 24 giờ. Cuối cùng, chia đôi các răng theo chiều gần xa dọc qua phục hồi và 
quan sát đánh giá sự thâm nhập dung dịch nhuộm dưới kính hiển vi nổi X30. Số liệu thu thập được nhập vào 
Excel 2007 và xử lý bằng phần mềm SPSS IBM 20. Sử dụng phép kiểm định phi tham số U – Mann Whitney 
cho hai mẫu độc lập. 
Kết quả: Cả 2 nhóm phục hồi bằng composite  trám răng sau một khối Tetric® N‐Ceram Bulk Fill có và 
không có lớp lót composite lỏng đều cho thấy hiện diện vi kẽ ở thành nướu của phục hồi. Nhóm không lót nhiều 
vi kẽ hơn nhóm có lót, sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê p = 0,949 (>0,05). 
Kết  luận: Phục hồi composite trực tiếp trên xoang loại II sử dụng hệ thống composite trám răng sau một 
khối có và không có lớp lót composite lỏng đều không ngăn ngừa hoàn toàn vi kẽ ở thành nướu của phục hồi. 
Từ khóa: Composite trám răng sau một khối, composite lỏng, vi kẽ, trám lót. 
ABSTRACT 
COMPARISON OF MICROLEAKAGE IN THE CLASS II RESTORATIONS 
 USING BULK FILL COMPOSITE WITH OR WITHOUT FLOWABLE LINER 
Cao Ngoc Khanh, Dinh Thi Khanh Van, Bui Huynh Anh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 371 ‐ 375 
Objectives: The aim of  the  study  is  to  evaluate  the microleakage  in  the gingival margins of  the  class  II 
restorations using bulk‐fill composite with or without flowable liner and compare the microleakage in the gingival 
margins of the class II restorations between two groups. 
Methods and materials: Thirty sound premolar  teeth, extracted  for orthodontic purpose were stored  in 
physiological saline at room temperature. These teeth were prepared with class II restorations standardized to the 
following  dimension:  4x1.5x4  mm  and  the  gingival  margin  of  the  restorations  needed  to  place  above  the 
cementoenamel junction at least 1mm. The teeth were then randomly divided into 2 groups (n=15). Group 1 was 
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP HCM  
Tác giả liên lạc:  Cao Ngọc Khánh  ĐT: 0904350564  Email:  
[email protected] 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 372
restored with Tetric® N‐Ceram Bulk Fill alone. Group 2 was restored with 1 mm flowable liner and Tetric® N‐
Ceram Bulk Fill. The restorations were  thermocycled  for 100 cycles at 50C and 550C with a dwell  time of 25 
seconds. Two coats of fingernail varnish were then applied except  for an area approximately 1 mm around the 
margins  of  the  restoration,  and  the  apex was  sealed with  sticky wax. The  teeth were  then  immersed  in  2% 
methylene  blue  at  room  temperature  for  24  hours. The  specimens were  embedded  to  resin  arcrylic  and  then 
sectioned  mesiodistally  across  the  center  of  the  restorations.  The  sectioned  specimens  were  observed  under 
stereomicroscope (X30). Data were analyzed using non‐parametric Mann Whitney U test. 
Results: There was no statistically significant difference between the groups p=0.949 (>0.05).  
Conclusion: Using bulk‐fill composite with and without flowable liner doesn’t prevent the microleakage in 
the gingival margins of the class II restorations. 
Key words: bulk‐fill composite, flowable composite, flowable liner, microleakage. 
ĐẶT VẤN Đề 
Vi  kẽ  là  một  trong  những  nguyên  nhân 
dẫn tới sự thất bại của một phục hồi vì đây là 
yếu tố thuận lợi đưa đến sự thâm nhiễm ở bờ 
phục hồi gây nhạy cảm sau điều  trị, đổi màu 
miếng  trám, sâu  răng  tái phát,  sút gãy miếng 
trám, và nghiêm  trọng hơn  là  có  thể gây nên 
bệnh lý tủy răng(6) . Nhiều phương pháp được 
đề nghị để khắc phục vấn đề này như sử dụng 
composite  lỏng để  trám  lót hay phương pháp 
trám từng lớp(1,8). Việc trám lót composite lỏng 
giảm sự hình thành khoảng trống, tăng độ bền 
cho  vật  liệu  dán  đã  được  chứng  minh  qua 
nhiều  nghiên  cứu.  Tuy  nhiên,  phương  pháp 
trám từng lớp làm nảy sinh những vấn đề mới, 
quá trình trám mất nhiều thời gian, đòi hỏi kỹ 
thuật, gia  tăng khoảng  trống giữa các  lớp vật 
liệu(2). Gần đây,  trên  thị  trường xuất hiện một 
số  loại composite  răng sau một khối  trên nền 
nhựa (bulk‐fill resin based composite ‐ Bulk‐fill 
RBC). Vật liệu này là composite có độ co ít, độ 
cứng  cao, biến dạng  chảy  thấp,  độ  sâu  trùng 
hợp bằng hoặc hơn 4mm. Với đặc tính cơ học 
được  cải  tiến, khi  thực hiện phục hồi  cho  các 
xoang  trám  lớn  bằng  loại  composite  này, 
chúng ta có cần đặt lớp lót composite lỏng hay 
không? Để  trả  lời  câu hỏi này,  chúng  tôi  tiến 
hành nghiên  cứu  in  vitro  đánh  giá  vi  kẽ  của 
phục hồi composite trực tiếp trên xoang loại II 
bằng hệ thống composite răng sau một khối có 
và không có lớp lót bằng composite lỏng”. Với 
mục tiêu nghiên cứu: 
1. Đánh giá vi kẽ  ở  thành nướu  của xoang 
trám  loại  II  sử dụng  hệ  thống  composite  răng 
sau một khối Tetric® N_Ceram Bulk Fill Có và 
không có lớp lót bằng composite lỏng.  
 2. So sánh mức độ vi kẽ ở thành nướu của lỗ 
trám giữa 2 nhóm trên. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện trên 30 răng cối 
nhỏ  vĩnh  viễn  của  người  đã  nhổ,  răng  còn 
nguyên vẹn, không sâu, không miếng trám, kích 
thước thân răng tương đương nhau. 
Chuẩn bị mẫu 
‐  Làm  sạch  răng  và  bảo  quản  trong  nước 
muối  sinh  lý  ở  nhiệt  độ  phòng  trong  vòng  30 
ngày cho đến khi tiến hành nghiên cứu. 
‐ Sửa soạn xoang loại II hình hộp nằm ở phía 
xa hoặc phía gần bằng mũi khoan  trụ  tungsten 
557 với kích thước 4x1,5x4 mm, thành nưới trên 
đường nối men‐xê măng tối thiểu 1 mm.  
‐ Đánh số răng từ 1 đến 30, chia ngẫu nhiên 
thành 2 nhóm, mỗi nhóm 15 răng đánh số từ K1 
đến K15 (đối với nhóm 1) và L1 đến L15 (đối với 
nhóm 2). Làm sạch xoang,  thổi nhẹ cho khô bề 
mặt. 
‐  Thực  hiện  qui  trình  trám  composite:  xoi 
mòn men, xử lý ngà bằng acid phosphoric 36%. 
Rửa nước. Thổi khô men, ngà  tương đối. Thoa 
keo dán lên toàn bộ xoang, chờ tối thiểu 20 giây, 
thổi nhẹ  10  giây  và  chiếu  đèn  20  giây.  Đặt hệ 
thống khuôn trám Tofflemire, chêm gỗ. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt  373
 Nhóm 1: đặt một  lượng composite Tetric® 
N‐Ceram  Bulk  Fill  hơi  dư  so  với  kích  thước 
xoang  trám,  nhồi  và  điêu  khắc  miếng  trám. 
Chiếu đèn trong 20 giây từ phía mặt nhai.  
 Nhóm 2: lót một lớp composite lỏng Tetric 
N‐Flow  dày  khoảng  1 mm  lên  toàn  bộ  thành 
nướu.Thực  hiện  phục  hồi  composite  răng  sau 
một khối Tetric®N‐Ceram Bulk Fill như nhóm 1. 
Tháo  khuôn  trám,  chêm  gỗ,  chiếu  đèn  từ 
phía ngoài và  trong  trong 20 giây. Mài  chỉnh 
và  đánh bóng miếng  trám  . Sau  đó, ngâm  tất 
cả mẫu vào  trong nước  cất  ở nhiệt  độ phòng 
trong 24 giờ. 
‐ Thực hiện chu  trình nhiệt: với 100 chu kỳ 
nhiệt giữa hai mức nhiệt độ là 550C ±10C và 50C 
±10C. Thời gian ngưng  tại mỗi điểm nhiệt  là 25 
giây và  thời gian  chuyển  đổi  là  5 giây. Bít kín 
chóp răng bằng sáp que. Bôi 2 lớp vecni lên toàn 
bộ  răng  trừ  phần  phục  hồi  và  1mm mô  răng 
chung quanh bờ miếng trám. 
‐ Nhuộm mẫu:  ngâm mẫu  vào  dung  dịch 
xanh methylene 2% trong vòng 24 giờ  
‐ Làm sạch mẫu: cạo bỏ sáp và làm sạch lớp 
vecni,  làm  sạch  lại bằng bột pumice  để  loại bỏ 
dung dịch nhuộm trên bề mặt. Chôn răng trong 
khối nhựa trong.  
‐ Cắt  đôi  răng  theo  chiều  gần  xa  qua  giữa 
miếng trám bằng đĩa cắt kim cương tốc độ chậm 
có nước  làm mát. Đánh bóng mặt cắt bằng  tay 
với giấy nhám chịu nước cỡ hạt 800‐1200. 
‐ Đánh giá độ thâm nhập dung dịch nhuộm 
trên cả 2 nhóm bởi 2 quan sát viên độc lập theo 
cùng thang đánh giá và ghi vào phiếu đánh giá 
theo mã số của mẫu. Quan sát dưới kính hiển vi 
nổi,  độ  phóng  đại  30  lần.  Đánh  giá  độ  theo 
thang đánh giá của Ferrari và cs (1996) như sau: 
0: không có sự thâm nhập của chất nhuộm. 
1: sự thâm nhập của chất nhuộm không quá 
½ thành nướu. 
2: sự thâm nhập của chất nhuộm vượt quá ½ 
thành nướu nhưng chưa đến thành trục.  
3: sự thâm nhập của chất nhuộm đến thành 
trục. 
Hình1: Các mức độ thấm nhập chất nhuộm: độ 1, độ 
2, độ 3, độ 4 (từ trái sang phải, từ trên xuống dưới) 
Số  liệu  thu  thập được nhập vào Excel 2007, 
xử lý bằng phần mềm SPSS IBM 20. 
Dùng hệ số kappa để đánh giá độ kiên định 
giữa hai quan sát viên. 
Sử dụng phép kiểm  định phi  tham  số U  – 
Mann Whitney. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Mức độ thâm nhập dung dịch nhuộm ở 2 
nhóm 
 Độ 0 Độ 1 Độ 2 Độ 3 Tổng cộng
Nhóm 1 3 3 4 5 15 
Nhóm 2 2 4 5 4 15 
Tổng 
cộng 5 7 9 9 30 
Bảng 2: Xếp hạng vi kẽ ở hai nhóm 
 n Trung bình hạng Tổng hạng
Nhóm không lót 15 15,60 234,00 
Nhóm có lót 15 15,40 231,00 
So  sánh  mức  độ  thâm  nhập  dung  dịch 
nhuộm  (mức  độ  vi  kẽ)  giữa  2  nhóm:  nhóm 
1(không có lớp composite lỏng) nhiều vi kẽ hơn 
nhóm 2 (có lót composite lỏng), sự khác biệt về 
mức  độ  vi  kẽ  giữa  2  nhóm  không  có  ý  nghĩa 
thống kê (p= 0,949>0,05). 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 374
BÀN LUẬN 
Co trùng hợp là một đặc tính cố hữu của vật 
liệu  phục  hồi  trên  nền  nhựa.  Một  trong  các 
phương  pháp  giảm  sự  co  do  trùng  hợp  ở  bờ 
phục hồi  là sử dụng  lớp vật  liệu  trung gian có 
mô‐đun đàn hồi thấp giữa bề mặt xoang trám và 
vật liệu phục hồi trên nền nhựa. Các vật liệu này 
thường  là  composite  lỏng  quang  trùng  hợp, 
dạng nhựa  lưỡng  trùng hợp, GIC hoặc  các  tác 
nhân dán ngà(4). Việc sử dụng một  lớp vật  liệu 
lót  có mô‐đun  đàn  hồi  thấp  có  tác  dụng  làm 
giảm  sự  thay  đổi về  thể  tích  xảy  ra  trong quá 
trình trùng hợp. Phương pháp này được đề xuất 
vào  năm  1996  nhằm  giảm  sự  co  trùng  hợp  ở 
phục hồi composite xoang V. Những vật liệu đó 
thường  là  loại  composite  lai,  chứa  khoảng  60 
đến 70% hạt độn về khối  lượng với kích  thước 
từ 0,7 đến 1 µm. Nhờ đó, chúng có mô‐đun đàn 
hồi thấp làm tăng khả năng đàn hồi của lớp vật 
liệu giúp hấp  thụ ngẫu  lực  co  trùng hợp. Hơn 
nữa, composite  lỏng có độ giãn nở nhiệt  tương 
đương với cấu trúc răng giúp giảm ngẫu lực co 
cũng  như  vi  kẽ  từ  18  đến  50%  nhưng  không 
hoàn  toàn(3).  Swift  và  cs  kết  luận  rằng  việc  sử 
dụng composite lỏng có tác dụng giảm vi kẽ một 
cách có ý nghĩa. Crimm cho rằng sử dụng lớp lót 
bằng nhựa tiền cứng giúp giảm vi kẽ ở bờ nướu 
của phục hồi xoang V(4). 
Trong  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  sử  dụng 
composite  lỏng  Tetric  N‐flow  có  chứa  thành 
phần hạt độn khoảng 68% (về khối lượng). Tuy 
nhiên,  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  mức  độ 
thâm  nhập phẩm màu  ở  thành  nướu  ở  cả  hai 
nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê với 
p  =  0,949  (>0,05).  Đồng  thời  quan  sát  ở  mỗi 
nhóm,  số  răng  có  hiện  tượng  thâm  nhập  chất 
nhuộm màu độ 1, 2, 3 chiếm tỉ lệ cao ( lần lượt là 
80% và 86,67% ở nhóm không lót và nhóm có lót 
composite lỏng). 
Các vật liệu phục hồi trên nền nhựa có một 
tính chất chung đặc trưng là co trùng hợp. Trong 
quá  trình  trùng  hợp,  sự  hình  thành  các mạng 
lưới  polymer  tạo  nên một  cấu  trúc  “đặc”  hơn 
dẫn đến sự co về thể tích hay sự co  trùng hợp. 
Mặc  khác,  phục  hồi  được  “dán”  vào  thành 
xoang, do đó sự co thể tích tạo nên một ngẫu lực 
co. Điều đó đồng nghĩa, ngẫu lực co càng lớn, sự 
co  trùng hợp  càng  cao. Trong nghiên  cứu này, 
chúng tôi sử dụng loại composite trám răng sau 
một khối Tetric® N‐Ceram Bulk Fill với đặc tính 
co trùng hợp  thấp. Tuy nhiên,  theo nghiên cứu 
của  D.Tantbirojin  và  cs  cho  thấy  vật  liệu 
composite co thấp không thật sự làm giảm sự co 
trùng hợp. Ngẫu lực co phụ thuộc vào nhiều yếu 
tố, trong đó quan trọng là tính chất của vật liệu 
phục hồi và loại tác nhân dán(7). Về phần nhóm 
có  sử  dụng  lớp  lót  composite  lỏng,  một  vài 
nghiên cứu cho thấy hiệu quả giảm vi kẽ ở phục 
hồi  composite  xoang  II  khi  sử  dụng  lớp  lót, 
trong khi một số khác lại cho kết quả ngược lại. 
Sự khác biệt này có thể do tính chất vật lý và cơ 
học  khác  nhau  giữa  các  loại  composite  lỏng. 
Tính chảy lỏng của vật liệu giúp bao phủ tốt bề 
mặt không đều đặn của xoang  trám. Hơn nữa, 
mô‐đun đàn hồi thấp giúp vật liệu có khả năng 
hấp thụ lực co tạo ra trong quá trình trùng hợp. 
Tuy  nhiên,  composite  lỏng  có  thành  phần  hạt 
độn  thấp  và  khung  nhựa  chủ  yếu  là  các 
monomer trọng lượng phân tử thấp, dẫn đến sự 
co trùng hợp cao(5). 
Ở một  khía  cạnh  khác,  các  loại  composite 
hiện nay có sự co thể tích trong quá trình trùng 
hợp khoảng 2,6%  đến 4,8%  (đối với Tetric® N‐
Ceram Bulk Fill, độ co  trùng hợp về  thể  tích  là 
<2%)  trong khi  đó  các  tác nhân dán  có  độ bền 
dán vào ngà hơn 20 Mpa, vượt qua cả lực co tạo 
ra do quá trình trùng hợp (13 đến 17 Mpa), tuy 
nhiên  tổng  lực co vẫn  lớn hơn độ bền dán  làm 
ảnh hưởng đến sự tiếp hợp bờ miếng trám(3).  
Theo một cách giải thích khác, phương pháp 
sử  dụng  lớp  lót  giúp  giảm  tổng  thể  tích  của 
composite  sử dụng,  điều  đó  có nghĩa  là  lượng 
thể  tích  co  khi  trùng  hợp  cũng  giảm  theo. 
Nghiên cứu chúng  tôi sử dụng composite  trám 
răng sau một khối có độ co trùng hợp thấp, do 
đó  lượng thể tích vật  liệu giảm đi không nhiều 
nên hiệu quả lớp lót cũng không rõ ràng(5). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt  375
Kết quả nghiên cứu của S. Kasraei và cs cho 
thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai 
nhóm phục hồi  có  lót bằng  composite  lỏng và 
không lót. Điều này có thể giải thích là do khi sử 
dụng cùng một loại keo dán (có mô‐đun đàn hồi 
thấp), bản thân lớp keo dán này tạo nên một lớp 
mỏng  trên bề mặt của xoang  trám và nó có  tác 
dụng tương tự như là một lớp đệm hấp thụ lực 
co trùng hợp(7).  
KẾT LUẬN 
Phục hồi composite trực tiếp trên xoang loại 
II  sử  dụng  hệ  thống  composite  trám  răng  sau 
một khối có và không có lớp lót composite lỏng 
đều không ngăn ngừa hoàn  toàn vi kẽ ở  thành 
nướu của phục hồi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cho E, et al (2006). “Influence of Elasticity on Gap Formation 
in  a  Lining  Technique  with  Flowable  Composite”,  Dental 
Materials Journal 25(3): 538‐544.  
2. Clinicians Report, January 2012, Volume 5 Issue 1. 
3. Fabianelli A,  et  al.  (2007).  “The Relevance  of Microleakage 
Studies”, International Dentistry South Africa 9(3): 64‐74. 
4. Hilton TJ  (2002).  “Can Modern Restoration Procedures  and 
Materials Reliably Seal Cavities? In vitro Investigations. Part 
1”, American Journal of Dentistry 15(3): 198‐210. 
5. Kasraei S, et al (2011). “In vitro Comparison of Microleakage 
of Posterior Resin Composites With and Without Liner Using 
Two‐Step  Etch‐and‐Rinse  and  Self‐etch  Dentin  Adhesive 
Systems”, Operative Dentistry 36(2): 213‐221. 
6. Kidd  EAM  (1976).  “Microleakage  in  Relation  to Amalgam 
and Composite Restorations. A Laboratory Study”  ,  British 
Dental Journal 141: 305‐310. 
7. Tantbirojn  D,  et  al  (2011).  “Do  Low‐shrink  Composites 
Reduce Polymerization Shrinkage Effects?”,  Journal of Dental 
Research 90(5): 596‐601.  
8. Yahagi  C,  et  al  (2012).  “Effect  of  Lining  with  a  Flowable 
Composite  on  Internal  Adaptation  of  Direct  Composite 
Restorations  using  All‐in‐One  Adhesive  Systems”,  Dental 
Materials Journal 31(3): 481‐488. 
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/12/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014