Bứơu diệp thể vú là dạng bệnh lý hiếm gặp. Qua nghiên cứu 41 trường hợp bệnh nhân được chẩn 
đoán bướu diệp thể tại bệnh viện Ung Bướu – TP.HCM từ 6/2001 – 4/2003, chúng tội ghi nhận: bướu diệp 
thể chiếm tỉ lệ 2% bệnh lý tuyến vú, tuổi trung bìnhtừ 40-49tuổi (48,8%), nữ. Kích thước trung bình là 9,1 
cm. 29,2% là bướu diệp thể ác. FNA chính xác 28,5%. Điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt bướu với rìa an 
toàn cách bướu 2cm. 10/41 ca phải đoạn nhũ vì bướu lớn. Không có ca nào tái phát sau mổ. Thời gian 
theo dõi trung bình là 9,2 tháng. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1863 | Lượt tải: 1 
              
            Nội dung tài liệu Tham luận Điều trị bướu diệp thể vú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
ĐIỀU TRỊ BƯỚU DIỆP THỂ VÚ 
Võ Đăng Hùng* Nguyễn Chấn Hùng** 
TÓM TẮT 
Bứơu diệp thể vú là dạng bệnh lý hiếm gặp. Qua nghiên cứu 41 trường hợp bệnh nhân được chẩn 
đoán bướu diệp thể tại bệnh viện Ung Bướu – TP.HCM từ 6/2001 – 4/2003, chúng tội ghi nhận: bướu diệp 
thể chiếm tỉ lệ 2% bệnh lý tuyến vú, tuổi trung bình từ 40-49tuổi (48,8%), nữ. Kích thước trung bình là 9,1 
cm. 29,2% là bướu diệp thể ác. FNA chính xác 28,5%. Điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt bướu với rìa an 
toàn cách bướu 2cm. 10/41 ca phải đoạn nhũ vì bướu lớn. Không có ca nào tái phát sau mổ. Thời gian 
theo dõi trung bình là 9,2 tháng. 
SUMMARY 
TREATMENT OF PHYLLODES TUMORS OF THE BREAST 
Vo Dang Hung, Nguyen Chan Hung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 137 – 145 
Phyllodes tumors of the breast are rare. In two years 2001-2003, 41 cases of phyllodes tumors of the 
breast have been performed at Oncology Hospital: 2% in all breast diseases. Average Ages are 40-49 
(48.8%), all are females, the mean size is 9.1cm, malignant phyllodes tumor are 29.2%. FNA of accurate 
appraisal are 28.5%. Treatment are essential surgery with 2cm excised margin. 10/41 cases are total 
mastectomy as large tumor. After surgery is no recurrence. Median follow-up are 9.2 months. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bướu diệp thể là dạng bệnh lý khá đặc biệt của 
vú. Bướu có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, nhưng 
thường nhất trong khoảng từ 30-50 tuổi(4,11). Chiếm tỉ 
lệ từ 2,2% -4% trong các loại bướu lành tuyến vú(19). Ở 
Việt Nam, theo N.S. Trung là 4,6%(12) trong các loại 
bướu lành tuyến vú. 
Về mặt lâm sàng bướu diễn tiến chậm, kích thước 
thường lớn, đa số lành tính, tiên lượng tốt nếu điều trị 
đúng cách. Bướu diệp thể vú thường chẩn đoán lâm 
sàng không quá khó ngoại trừ một số ít trường hợp cần 
chẩn đoán phân biệt với bướu sợi - tuyến va øphân biệt 
lành ác trước khi tiến hành điều trị. 
Vấn đề điều trị bướu trên thế giới cũng như các 
tác giả trong nước đều chấp nhận phẫu thuật là 
phương pháp điều trị lựa chọn, nhưng phẫu thuật 
như thế nào và mức đo rộng của phẫu thuật ra sao?, 
vấn đề còn đang được bàn cãi và tiếp tục hoàn thiện. 
Thực hiện công trình này chúng tôi nhằm các 
mục tiêu sau 
Khảo sát một số yếu tố dịch tễ học của bướu diệp 
thể 
Khảo sát các đặc điểm bệnh học và chẩn đoán 
Khảo sát các phương pháp điều trị bướu diệp thể 
Khảo sát tỉ lệ tái phát và biến chứng của điều trị 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán là bướu 
diệp thể được điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu 
TPHCM từ 6/2001 – 4/2003, có xác định giải phẫu 
bệnh, được chẩn đoán và điều trị theo qui trình đã 
được đề xuất, được theo dõi định kỳ sau mổ. 
* Khoa Ngoại 5 BV Ung Bướu TP HCM. 
** Bộ ung thư học môn – ĐH Y Dược TP. HCM, Bệnh viện Ung bướu TP HCM. 
 137
Phương pháp nghiên cứu 
Tiền cứu, quan sát và đánh giá kết quả điều trị và 
so sánh với các kết quả của các tác giả trong và ngoài 
nước. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 10.0. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Một số yếu tố dịch tễ học 
Tần suất 
Trong 2 năm tương ứng với thời gian nghiên cứu 
này, Bệnh Viện Ung Bướu điều trị 2050 ca bệnh lý 
tuyến vú. Trong đó có 41 trường hợp nghiên cứu 
tương ứng với 2%. 
Bảng 1. So sánh các tần suất 
Tác giả Tần suất (%) 
Jeanne A. Petrek 4,4 
Lester 2,5 
Phạm Văn Ngà 2,7 
Nguyễn Sào Trung 4,6 
Bệnh Viện Ung Bướu 1994 3 
Bệnh Viện Ung Bướu 1998 2,3 
Loạt nghiên cứu này 2 
Tần suất bướu diệp thể thay đổi từ 2%-4% tùy 
tác giả tương đương với số liệu các tác giả trong 
nước. Tuy nhiên, so sánh này chỉ mang tính chất 
tương đối vì cách chọn mẫu của các tác giả khác 
nhau. Ví dụ, tác giả Nguyễn Sào Trung (12), tính 
tần suất bướu diệp thể trên bệnh lý tuyến vú lành 
tính được thử giải phẫu bệnh tại Trường Đại Học Y 
Dược TPHCM. Trong khi các tác giả của Bệnh Viện 
Ung Bướu tính tần suất trên số bệnh nhân nhập 
viện điều trị tại Khoa Ngoại 3 và Khoa Ngoại 4, và 
đa số các bệnh nhân này là bệnh lý ác tính ở vú. 
Tần suất trong loạt nghiên cứu này cũng hơi 
thấp hơn khi so sánh với hai công trình trước cũng 
của Bệnh Viện Ung Bướu. Vì đây là đề tài tiền cứu 
nên có một số trường hợp không thỏa các yếu tố 
qui định chúng tôi phải loại trừ. 
Tuổi 
Bảng 2. So sánh tuổi mắc bệnh 
Tác giả Tuổi 
Armando E. Guiliano (16) 40 – 50 
William L. Donegan (38) 52 (17- 82) 
Đoàn Hữu Nam (6) 30 – 40 
Bệnh Viện Ung Bướu 1994 (5) 39,8 (16 - 72) 
Nguyễn Sào Trung (12) 30 – 50 
Bệnh Viện Ung Bướu 1998 (2) 38,79 (13 - 67) 
Loạt nghiên cứu này 40 – 50 (23 -76) 
Đa số các tác giả đều cho rằng bướu diệp thể xuất 
hiện ở một khoảng tuổi rộng, tuổi trung bình là 45 
tuổi, lớn hơn độ tuổi trung bình của bệnh nhân mắc 
bệnh bướu sợi-tuyến là 20 tuổi. 
Trong loạt nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận độ 
tuổi 40 – 50 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất và vượt trội hẳn 
(48,8%) phù hợp với các tác giả nước ngoài. Tuy 
nhiên, khi so sánh với các tác giả trong nước chúng 
tôi chỉ phù hợp với tác giả Nguyễn Sào Trung, nhưng 
lại cao hơn các tác giả khác. 
Tuổi nhỏ nhất là 23 tuổi và lớn nhất là 76 tuổi, số 
liệu cũng phù hợp với các tác giả là tuổi thanh niên ít 
gặp. Nhưng ngược lại so với tác giả Lê Văn Cường có 
12 trường hợp bệnh nhân < 20 tuổi (chiếm tỉ lệ 
8,5%). Đây là tỉ lệ bướu diệp thể vú xảy ra ở tuổi thanh 
thiếu niên cao nhất được báo cáo từ trước đến nay. 
Giới 
Tất cả các trường hợp bướu diệp thể vú của 
chúng tôi đều ở nữ giới. Cũng phù hợp với các tác 
giả khác, như công trình ghi nhận 40 bệnh nhân từ 
năm 1980–1997 tại Bệnh Viện Đa Khoa 
Massachusettes Boston (15), cũng không có trường 
hợp nam giới nào. Bướu diệp thể ở nam giới rất 
hiếm. Trong nước, các tác giả trước cũng chưa ghi 
nhận trường hợp nào là bướu diệp thể vú ở nam giới. 
Dân tộc 
Ở các nước đa chủng tộc, các tác giả có ghi 
nhận rằng người da trắng gốc Latin và gốc Đông Á 
thì bị bướu diệp thể vú nhiều hơn. Trong loạt 
nghiên cứu của chúng tôi, tất cả đều là người kinh, 
không có trường hợp nào là người dân tộc thiểu số. 
 138
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
Tiền căn 
Tiền căn sản phụ khoa 
Tình trạng kinh nguyệt 
Bảng 3. So sánh tình trạng có kinh đầu 
Tác giả Tuổi có kinh trung bình Khoảng tuổi
Abeel và cộng sự (15) 13,2 10 – 16 
Loạt nghiên cứu này 15,3 13 – 18 
Trong loạt nghiên cứu này có 29 bệnh nhân được 
ghi nhận tuổi có kinh đầu tiên và tuổi có kinh trung 
bình là 15,3 trải đều trong khoảng tuổi từ 13 đến 18 
tuổi. So sánh vói Abeel và cộng sự(15) với tuổi trung 
bình là 13,2, trong độ tuổi từ 10 – 16 tuổi. Như vậy 
nhận thấy rằng tuổi dậy thì của phụ nữ của chúng tôi 
trễ hơn phụ nữ ở Boston – Hoa Kỳ. Và đa số các công 
tình khác không có nghiên cứu yếu tố này nên chúng 
tôi ghi nhận như trên nhưng không rút ra được có 
mối liên quan giữa tuổi có kinh và bệnh lý bướu diệp 
thể hay không. 
Cũng như yếu tố tuổi có kinh đầu, tình trạng 
mãn kinh hay còn kinh cũng không được các tác giả 
nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận được 25 trường hợp 
còn kinh và 5 trường hợp đã mãn kinh. So sánh với 
Abeel thì cũng có sự phù hợp (30 trường hợp/ 10 
trường hợp). 
Số con 
Bảng 4. So sánh số con của bệnh nhân 
Độc thân 0 con 1 con 2 con 3 con 4 con 5 con
13 4 5 8 7 1 1 
Theo kết quả trên ta nhận thấy rằng đa số bệnh 
nhân có ít con từ 3 con trở xuống. Đặc biệt là số độc 
thân và có gia đình mà không con chiếm tỉ lệ 17/39 
# 43,5%. Đây là tỉ lệ rất cao. Trong 13 trường hợp độc 
thân, chỉ có 2 trường hợp dưới 30 tuổi còn 11 trường 
hợp trên 30 tuổi. Và 4 trường hợp không con đều lập 
gia đình trên 3 năm đến 10 năm, nghĩa là không có 
con không do kế hoạch. 
Như chúng ta đã biết, đối với carcinôm ở vú thì 
độc thân và ít con là một yếu tố nguy cơ được xác 
định, nhưng đối với bướu diệp thể thì ít được ghi 
nhận, và qua nghiên cứu này chúng tôi chỉ ghi nhận 
và không kết luận. 
Tiền căn bệnh lý tuyến vú 
Trong loạt nghiên cứu của chúng tôi không có 
bệnh nhân nào có tiền căn về bệnh lý tuyến vú. 
Theo S.J. Parker và S.A. Harries(37): “nhiều bệnh 
nhân có cả 2 sang thương là bướu sợi-tuyến và bướu 
diệp thể cùng một lúc hoặc có trước có sau”. 
Theo Abeel(15) và cộng sự: nghiên cứu 40 bệnh 
nhân bướu diệp thể từ 1980-1977 tại Bệnh Viện Đa 
Khoa Massachusetts Boston. Trong 40 trường hợp có 
đến 12 trường hợp có tiền căn mổ bướu vú từ trước. 
Trong đó, 7 trường hợp giải phẫu bệnh là bướu 
sợi-tuyến, và đã được mổ từ 5 đến 26 năm trước khi 
được chẩn đoán là bướu diệp thể. 5 trường hợp còn lại 
có giải phẫu bệnh là xơ nang tuyến vú. Và được thực 
hiện sinh thiết từ 1 đến 12 năm trước khi phát hiện 
bướu diệp thể. 
Và để trả lời cho câu hỏi tại sao công trình nghiên 
cứu của ông có quá nhiều bệnh nhân có tiền căn 
bệnh lý tuyến vú nhất là bướu sợi-tuyến, Abeel giải 
thích “có thể 7 trường hợp bướu sợi-tuyến đó là bướu 
diệp thể ngay từ đầu vì chúng tôi không có rà soát lại 
xem các nhà giải phẫu bệnh của chúng tôi theo tiêu 
chuẩn nào để chẩn đoán phân biệt giữa bướu sợi-
tuyến và bướu diệp thể”. 
Lâm sàng 
Vị trí bướu 
Bảng 5. So sánh vị trí bướu (1) 
Tác giả Vú (P) Vú (T) 
BVUB 1994(5) 43,1% 56,9% 
BVUB 1998(2) 42% 58% 
Loạt nghiên cứu này 58,53% 41,46% 
Theo hầu hết các tác giả trước đây đều ghi nhận 
tỉ lệ mắc bệnh ở vú trái cao hơn vú phải. Nhưng trong 
loạt nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận có sự khác 
biệt. Sự khác biệt này là sự khác biệt ngẫu nhiên 
trong mẫu nghiên cứu chứ không mang ý nghĩa nào 
khác. Trong loạt nghiên cứu này không ghi nhận 
được trường hợp nào bướu diệp thể hai bên, phù hợp 
với các tác giả khác. 
 139
Bảng 6. So sánh vị trí bướu (2) 
Tác giả 1/4 trên ngoài 
Bệnh Viện Ung Bướu 1994(5) 17,7% 
Bệnh Viện Ung Bướu 1998(2) 21,4% 
Nguyễn Sào Trung(12) 48% 
Loạt nghiên cứu này 30% 
Vị trí 1/4 trên ngoài thường gặp nhất. Điều này 
cũng phù hợp với các tác giả trong và ngoài nước. Tuy 
nhiên, trong các nghiên cứu của Bệnh Viện Ung 
Bướu, chúng tôi nhận thấy rằng, vị trí 1/4 trên ngoài 
tăng đều theo thời gian. Điều này giải thích được là 
càng về sau thì hồ sơ bệnh án ghi chính xác hơn. 
Trong hồ sơ ghi rõ, hiện tại bướu chiếm toàn bộ vú 
nhưng xuất hiện đầu tiên ở 1/4 trên ngoài, ... Còn 
Bệnh viện Ung Bướu 1994: tỉ lệ chiếm toàn bộ tuyến 
vú rất cao. 
Kích thước bướu 
Bảng 7. So sánh kích thước bướu 
Tác giả Kích thước trung bình (cm) 
Kesinger (1972) 11,8 
BVUB 1994 5 – 10 
BVUB 1998 9,1 
Loạt nghiên cứu này 9,1 
Kích thước bướu lớn nhất khác nhau giữa các tác 
giả. Tuy nhiên, có cùng nhận định chung là kích 
bướu thường lớn. Và cũng ghi nhận được là kích 
thước bướu diệp thể ác thường lớn hơn bướu diệp thể 
lành vì đa số các trường hợp bướu diệp thể giáp biên 
và bướu diệp thể ác được xác định sau khi phẫu thuật 
đoạn nhũ. 
Tính chất bướu 
Hầu hết mật độ bướu được ghi nhận là chắc, 
những bướu to thì có thêm nhận định chắc và không 
đồng nhất. 
Bảng 8. Tính chất da trên bướu 
Dính da 4 
Lỡ ra da 1 
Mỏng da 5 
Da bình thường 27 
Đa số các tác giả đều công nhận là bướu diệp thể 
dù lành hay ác cũng đều không xâm nhiễm ra da. 
Những triệu chứng biểu hiện ra thường do các yếu tố 
tác động bên ngoài như sẹo mổ cũ (dính da), điều trị 
không đúng cách (lỡ loét ra da), hoặc mỏng da do 
kích thước bướu quá to và gây kéo dãn da trên bướu 
mỏng đi và lộ rõ tuần hoàn bàng hệ dưới da. Bướu 
diệp thể có giới hạn rõ, di động dễ dàng, khi bướu to 
do tính chất có từng “múi”, từng thuỳ nên khi khám 
thấy bờ đa cung. 
Thời gian phát hiện bướu 
Trung bình 26,7 tháng, phù hợp với báo cáo của 
Bệnh viện Ung Bướu 1998 và cao hơn các tác giả 
khác và cao hơn rất nhiều so với báo cáo của Bệnh 
viện Ung Bướu 1994. Có lẽ do hồ sơ bệnh án của các 
năm về sau này ghi nhận chính xác hơn. Đa số bệnh 
nhân phát hiện bướu khoảng 2-3 năm trước và 5-6 
tháng nay lớn nhanh. 
Triệu chứng lâm sàng 
Hầu hết các tác giả đều ghi nhận triệu chứng 
bướu là triệu chứng đầu tiên và luôn luôn có. Những 
triệu chứng khác như: đau vú, tiết dịch núm vú, co 
kéo đầu vú,... thì rất hiếm. Lỡ loét ra da thường do 
bướu lớn gây chèn ép, thiếu máu hay do tác nhân bên 
ngoài hơn là do bướu xâm nhiễm. Nói chung, triệu 
chứng lâm sàng của bướu diệp thể vú rất nghèo nàn. 
Triệu chứng hạch nách thường rất ít và hầu như nếu 
có thường là hạch viêm, không có di căn hạch. 
Cận lâm sàng 
Siêu âm 
Theo các tác giả Cole – Beuglet (1983), Buch 
Berger (1992), Libertmau L. (1996) trên siêu âm 
bướu diệp thể và bướu sợi-tuyến đều có giới hạn rõ rất 
khó phân biệt. Jeanne Petrek (28) đề nghị dựa vào 
những nang dài (bị ép dẹp) trong một bướu đặc để 
chẩn đoán phân biệt giữa bướu diệp thể và bướu sợi-
tuyến. Theo Bruno (1980)(19), siêu âm với một số 
hình ảnh khối bướu nhiều thuỳ, giới hạn rõ, với 
những nang nước, không xâm lấn vỏ bao, cho phép 
chẩn đoán bướu diệp thể. Nhưng thực tế không phải 
bướu diệp thể nào cũng có nang. 
Trong loạt nghiên cứu này, chúng tôi có 29/41 
trường hợp có siêu âm được ghi nhận như sau: 
 140
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
Bảng 9. Kết quả siêu âm chẩn đoán 
Siêu âm chẩn đoán số ca % 
Bướu diệp thể 21 72,4 
Bướu sợi-tuyến 3 10,3 
Bướu vú không điển hình bướu diệp thể 1 3,4 
Bướu vú không điển hình lành tính 1 3,4 
Ung thư vú 2 6,9 
Sarcôm vú 1 3,4 
Tổng cộng 29 100,0 
Như vậy, trong đợt khảo sát này chúng tôi có 
27,6% chẩn đoán của siêu âm không phù hợp với giải 
phẫu bệnh. 
Bảng 10. So sánh sự phù hợp giữa siêu âm và giải 
phẫu bệnh 
 % phù hợp siêu âm/giải phẫu 
bệnh 
Bệnh Viện Ung Bướu 1994 99,9% 
Bệnh Viện Ung Bướu 1998 50% 
Loạt nghiên cứu này 72,4% 
Nhũ ảnh 
Đa số các tác giả đều công nhận bướu diệp thể 
còn nhỏ (<3 cm) hình ảnh trên X quang rất giống 
bướu sợi-tuyến. Còn khi bướu lớn >3 cm phải chẩn 
đoán phân biệt với bướu sợi-tuyến khổng lồ. Không 
có dấu hiệu chẩn đoán cho bướu diệp thể lành hay ác. 
Trong một nghiên cứu E. Yilmaz(24), ông báo cáo 
chuyên đề về chẩn đoán phân biệt bướu diệp thể và 
bướu sợi-tuyến bằng nhũ ảnh và siêu âm. 
Nghiên cứu của ông được thực hiện từ 1986-2000 
trên 12 bướu diệp thể và 19 bướu sợi-tuyến. Tất cả 
các trường hợp đều được chụp nhũ ảnh và siêu âm. 
Kết quả nhũ ảnh và siêu cho chẩn đoán bởi hai bác sĩ 
X quang khác nhau và trên tiêu bản giải phẫu bệnh 
cũng được đọc bởi 2 bác sĩ giải phẫu bệnh khác nhau. 
Sau khi phân tích nhiều triệu chứng khác biệt ông đi 
đến kết luận: “Một cách tương đối có thể phân biệt 
bướu sợi-tuyến và bướu diệp thể. Tuy nhiên, không 
thể phân biệt rõ ràng 2 loại bướu này trên nhũ ảnh và 
siêu âm, do đó, cần phải có sinh thiết mở để xác định 
chẩn đoán”. 
Trong loạt nghiên cứu này, chúng tôi không tiến 
hành thực hiện nhũ ảnh cho bệnh nhân vì những lý 
do trên. 
Chọc hút bằng kim nhỏ (FNA) 
Theo J.R. Harris để chẩn đoán một bướu diệp thể 
bằng FNA, tiêu bản phải hiện diện đầy đủ hai thành 
phần mô đệm và mô tuyến bình thường. FNA thất 
bại trong 22% và 83% trong hai báo cáo. Trong một 
công trình nghiên cứu khác có 4 bướu diệp thể lành 
thì 2 được chẩn đoán lầm là carcinôm vú, 1 trường 
hợp nghi ngờ là carcinôm, và 1 là biểu mô ống tuyến 
vú bình thường. 
Một báo cáo lớn nhất tổng kết các xét nghiệm tế 
bào học của 22 trường hợp được khẳng định mô học 
là bướu diệp thể đã kết luận: các nhà tế bào học nên 
cẩn thận 
Bảng 11. So sánh sự phù hợp giữa FNA và giải phẫu 
bệnh 
Tác giả Tỉ lệ phù hợp FNA và giải phẫu bệnh
STANLEY M.W 88% 
SALVA DORI 14% 
BVUB 1994 0% 
BVUB 1998 34,8% 
NGHIÊN CỨU NÀY 28,5% 
Vậy với kết quả FNA cũng không cho độ chính 
xác cao trong chẩn đoán bướu lành và bướu diệp thể 
ác. Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu của nhiều 
nhà giải phẫu bệnh mà đứng đầu là Richard A. 
Scoleyer với chuyên đề “bằng cách sử dụng FNAC có 
thể phân biệt được bướu bướu diệp thể với bướu sợi-
tuyến hay không”. 
Mỗi nhà nghiên cứu khảo sát độc lập 16 đặc điểm 
tế bào trên 8 bướu diệp thể (6 lành, 2 ác) và 13 bướu 
sợi-tuyến. Sau khi khảo sát 16 đặc điểm và cho điểm 
các đặc điểm, so sánh với nhau và các tác giả khuyến 
cáo: “Nên làm FNA nhiều chỗ khắp sang thương vú 
để gia tăng chẩn đoán chính xác” và đưa ra kết luận: 
“Trong hầu hết các trường hợp có thể phân biệt được 
bướu diệp thể và bướu sợi-tuyến bằng FNAC. Sự phân 
biệt trước mổ như thế sẽ giúp phẫu thuật hợp lý hơn 
cho bệnh nhân và hạn chế phải mổ lần hai. Vì ậy, 
chúng tôi đề nghị nếu thấy thành phần mô đệm quá 
mức trên tiêu bản FNA của một bướu biểu mô sợi, 
nhà tế bào học nên cho kết quả bướu diệp thể và 
phẫu thuật nên có xử trí thích hợp” 
 141
Cắt lạnh 
Cắt lạnh toàn bộ bướu sợi-tuyến vú để tìm ra tỉ lệ 
hiếm của bướu diệp thể vú quả là một điều không 
nên. Và ngay trong tiêu bản cắt lạnh cũng khó phân 
biệt giữa bướu diệp thể và bướu sợi-tuyến, hơn nữa 
các thành phần sarcôm trong bướu diệp thể có thể bị 
chẩn đoán lầm là carcinôm kém biệt hoá, từ đó dẫn 
đến phẫu thuật triệt để không cần thiết. 
Hóa mô miễn dịch và yếu tố tiên lượng 
Phần lớn di căn xa do bướu giáp biên hay ác tính, 
không giống như tái phát tại chỗ, kích thước bướu tỏ 
ra là một yếu tố quan trọng trong việc tiên đoán di 
căn xa. Nhiều yếu tố tiên lượng về mặt mô học được 
đánh giá khá quan trọng: quá phát mô đệm, hoại tử 
bướu, xâm nhiễm bờ của bướu, thành phần nhu mô 
hỗn hợp, tỉ lệ phân bào cao và mô đệm không điển 
hình, ... nhưng từng yếu tố riêng lẻ tỏ ra có giá trị 
tiên đoán thấp. Reinfuss và cộng sự, bằng kỹ thuật 
phân tích thống nhất xác định sự quá phát mô đệm, 
bờ phẫu thuật và loại mô học là các yếu tố tiên lượng 
độc lập. Tương tự Cohn-Cedremark và cộng sự, trong 
một phân tích thống nhất khác xác định hoạt động 
phân bào, quá phát mô đệm, tính không điển hình tế 
bào, hoại tử bướu và thành phần mô đệm là các yếu 
tố tiên lượng quan trọng, nhưng phân tích đa biến thì 
chỉ có sự hiện diện của hoại tử và loại mô đệm là yếu 
tố quan trọng. 
Vì các nghiên cứu yếu tố tiên lượng về mặt mô 
học không mang lại kết quả nhiều, các nghiên cứu 
gần đây tập trung vào các chất đánh dấu sinh học 
bướu. Sự đột biến gen đè nén bướu p53 được xác định 
trong các bệnh lý ác tính ở người và được cho rằng có 
vai trò quan trọng trong sự phát triển bướu. Tăng 
phản ứng miễn dịch p53 của mô đệm được phát hiện 
trong các bướu diệp thể ác tính và phản ứng miễn 
dịch p53 tỏ ra có liên quan với các yếu tố tiên lượng 
xấu, nhưng một mình nó không tiên đoán được tái 
phát tại chỗ hay sống còn. Các nghiên cứu về dòng tế 
bào (flow cytometric) sự liên quan giữa thành phần 
DNA, tăng sinh tế bào, grad mô học được mô tả. Vài 
nghiên cứu đã xác lập sự liên quan giữa các chất đánh 
dấu bướu của tế bào và hệ quả lâm sàng, tuy nhiên 
hầu như không có. Các nghiên cứu gần đây nhất cho 
thấy rằng telomerase, một enzym ribonucleoprotein 
tạo ra telomerase có thể có yếu tố tiên lượng trong 
bướu diệp thể. 
Và với các công trình nghiên cứu của Yamaz 
Erhan và cộng sự năm 2002 chuyên đề “Hiện diện 
của P53 và Ki67 như là các yếu tố tiên lượng trong 
bướu diệp thể”. Ông nghiên cứu 12 trường hợp bướu 
diệp thể lành và 9 trường hợp bướu diệp thể ác. Bệnh 
phẩm đã được nhuộm hóa mô miễn dịch và tìm sự 
hiện diện của gen ức chế P53 và kháng nguyên Ki67. 
Kết quả là tất cả 12 trường hợp bướu diệp thể 
lành và 10 trường hợp bướu sợi-tuyến đều có P53(-) 
và Ki67(-). Trong khi 5/9 trường hợp ác tính có 
P53(+) và 6/9 trường hợp ác tính có Ki67(+). Và giá 
trị P53 và Ki67 cao trong những trường hợp tái phát 
và cho di căn. 
Và ông cho rằng Ki67 và P53 có thể đóng vai 
trò trong việc tiên đoán tiên lượng và đưa ra điều 
trị hỗ trợ cho bệnh nhân bị bướu diệp thể ác tính 
sau phẫu thuật. 
Hiện tại chúng tôi chưa thực hiện được các 
phương pháp khảo sát p53 và Ki67 cho bệnh nhân 
Việt Nam 
Tỉ lệ sống còn 5 năm đối với bướu diệp thể lành 
96%; bướu diệp thể giáp biên 74%; và bướu diệp thể 
ác 66%. Vorherr và cộng sự, tiên lượng 5 năm cho 
toàn bộ bướu diệp thể ác là 80%. 
Điều trị 
Phẫu trị lần đầu 
Hầu hết các tác giả đều đồng ý phẫu trị là phương 
pháp điều trị lựa chọn cho bướu diệp thể vú. 
Đối với các bướu diệp thể lành: cắt rộng với bờ cắt 
“sạch”, nghĩa là không còn tế bào bướu. Nếu chỉ “lấy 
bướu” hay chỉ cắt cách bướu vài mm, tỉ lệ tái phát tại 
chỗ là 20%. Bờ diện cắt được coi là đủ rộng, an toàn 
được nhiều tác giả công nhận là phải hơn 1cm. Jeane 
A. Petrek chọn 2cm(28), W. L. Donegan chọn 2–
3cm(38), Abeel A. Mangi chọn 1 – 2 cm(15). 
Vì đây là nghiên cứu tiền cứu nên chúng tôi chọn 
diện cắt an toàn cách bướu 2 cm ngay từ đầu. Trong 
loạt nghiên cứu này chúng tôi có tất cả 15/41 trường 
 142
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
hợp được cắt rộng với khoảng cách 2 cm, và tất cả các 
trường hợp này đều được kiểm tra diện cắt không còn 
bướu. Lẽ dĩ nhiên là chúng tôi chỉ kiểm tra được từ 4 
đến 6 vị trí trên diện cắt, chứ không đủ điều kiện để 
làm tiêu bản hàng loạt trên diện cắt. Nhưng để mổ 
cắt rộng được bướu đúng tiêu chuẩn đã định cần phải 
tùy thuộc vào kích thước bướu và nhất là phần mô 
tuyến vú còn bình thường. nếu kích thước bướu lớn 
trên một tuyến vú kém phát triển thì đôi khi cắt rộng 
cũng đồng nghĩa với đoạn nhũ. 
Chúng tôi có 10/41 trường hợp là bướu diệp thể 
lành nhưng phải đoạn nhũ đơn giản vì kích thước 
bướu to so với mô tuyến vú còn bình thường không 
bao nhiêu, tức là mô tuyến vú bị ép dẹp lại nhỏ 
hơn 2 cm. Cùng quan điểm với chúng tôi có Abeel 
và cộng sự “Nếu cắt rộng bướu mà không an tâm, 
gây biến dạng thẩm mỹ trầm trọng thì 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 7076_dieu_tri_buou_diep_the_vu.pdf 7076_dieu_tri_buou_diep_the_vu.pdf