Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe về kỳ tà (tức bệnh) không ở tại kinh, thế nghĩa 
là gì ?"[1].
Kỳ Bá đáp : "Đó chính là do huyết lạc vậy"[2].
Hoàng Đế hỏi: "Có khi châm các huyết lạc mà người bệnh bị té nhào, tại sao vậy 
?[2] Châm xong huyết xuất ra có giọt bắn ra, tại sao vậy ?[3] . Châm mà huyết ra ít 
nhưng đen mà dơ (trọc bẩn), tại sao vậy ?[4] . Châm mà huyết ra trong, hơn phân 
nửa lại như chất trấp, tại sao vậy ?[5] . Vừa mới châm là nơi châm bị sưng thũng 
lên, tại sao vậy ?[6]. Châm mà huyết xuất ra lúc nhiều lúc ít, trong lúc đó sắc mặt 
lạnh xanh ngắt lên, tại sao vậy?[7]. Châm xong, sắc mặt không thay đổi nhưng 
trong lòng bị bứt rứt, tại sao vậy?[8]. Châm vào ra máu nhiều nhưng người bệnh 
không bị lảo đảo, tại sao vậy?, Ta mong được nghe về tất cả những nguyên nhân 
ấy"[9].
              
                                            
                                
            
 
            
                 3 trang
3 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Thiên 39: huyết lạc luận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THIÊN 39: HUYẾT LẠC LUẬN 
Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe về kỳ tà (tức bệnh) không ở tại kinh, thế nghĩa 
là gì ?"[1]. 
Kỳ Bá đáp : "Đó chính là do huyết lạc vậy"[2]. 
Hoàng Đế hỏi: "Có khi châm các huyết lạc mà người bệnh bị té nhào, tại sao vậy 
?[2] Châm xong huyết xuất ra có giọt bắn ra, tại sao vậy ?[3] . Châm mà huyết ra ít 
nhưng đen mà dơ (trọc bẩn), tại sao vậy ?[4] . Châm mà huyết ra trong, hơn phân 
nửa lại như chất trấp, tại sao vậy ?[5] . Vừa mới châm là nơi châm bị sưng thũng 
lên, tại sao vậy ?[6]. Châm mà huyết xuất ra lúc nhiều lúc ít, trong lúc đó sắc mặt 
lạnh xanh ngắt lên, tại sao vậy?[7]. Châm xong, sắc mặt không thay đổi nhưng 
trong lòng bị bứt rứt, tại sao vậy?[8]. Châm vào ra máu nhiều nhưng người bệnh 
không bị lảo đảo, tại sao vậy?, Ta mong được nghe về tất cả những nguyên nhân 
ấy"[9]. 
Kỳ Bá đáp : "Người nào mạch khí mạnh mà huyết hư, khi châm họ sẽ bị thoát khí, 
bị thoát khí thì sẽ té nhào[10]. Khi nào huyết và khí đều thịnh nhưng Âm khí nhiều 
hơn thì huyết trơn hoạt hơn, nếu châm vào thì máu sẽ phún ra[11]. Khi nào Dương 
khí súc tích lâu ngày, nó lưu lại mà không được tả ra, huyết sẽ đen và dơ, do đó mà 
không thể phụt ra[12]. Nếu vừa uống nước vào, chất dịch sẽ thấm vào đến các lạc 
mạch nhưng chưa hòa hợp được với huyết, cho nên huyết ra sẽ phân biệt giữa nước 
và trấp, nếu như không phải do mới uống nước mà do trong người có sẵn nước, lâu 
ngày sẽ thành chứng thũng[13]. Khi nào Âm khí tích ở trong Dương khí, khí này sẽ 
đi vào các lạc mạch, cho nên khi châm vào, huyết chưa ra thì khí đã ra trước sẽ gây 
thành chứng sưng thũng lên[14]. Khi nào khí Âm Dương vừa mới đến với nhau 
nhưng chưa kịp hòa hợp nhau, lúc bấy giờ nếu chúng ta châm tả sẽ làm cho cả Âm 
Dương đều thoát, biểu lý cùng rời nhau, do đó mà thoát sắc và sắc mặt sẽ xanh 
ngắt lên[15]. Khi nào châm vào huyết ra nhiều, sắc mặt không biến đổi nhưng lòng 
phiền muộn, đó là do ta châm vào lạc mạch mà làm hư đến kinh mạch, khi mà kinh 
bị hư thuộc về Âm, Âm sẽ thoát và ta bị bứt rứt"[16]. 
Âm Dương tương đắc với nhau rồi hợp lại thành chứng Tý, đây là trường hợp bên 
trong thì tràn vào kinh, bên ngoài rót vào lạc, như vậy, Âm Dương đều hữu dư, cho 
nên dù có xuất huyết nhiều, cũng không làm cho khí hư được"[17]. 
Hoàng Đế hỏi: "Phải nhìn dấu vết như thế nào ?"[18]. 
Kỳ Bá đáp : "Huyết ở mạch thịnh và cứng lên nằm ngang dọc, màu đỏ trên dưới 
không nhất định nơi nào, vết nào nhỏ thì như cây kim, vết nào lớn thì như sợi gân, 
nếu được châm tả đi thì thật là vạn toàn[19]. Cho nên, không nên châm sai với độ 
số (con đường xuất nhập của huyết mạch), tức là sai đi cái độ số, tức là làm nghịch 
với phép châm, vậy chỉ nên châm tương ứng với độ số của đường xuất nhập của 
kinh mạch"[20]. 
Hoàng Đế hỏi: "Khi châm kim vào thì cơ nhục như bị cứng làm cho kim khó xoay 
trở, tại sao vậy ?"[21]. 
Kỳ Bá đáp : "Nhiệt khí bám vào kim làm cho kim cũng bị nhiệt, nhiệt thì sẽ làm 
cho cơ nhục bị rít vào 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 thien_39_1052.pdf thien_39_1052.pdf