Trên cơ sở vạch rõ nội hàm khái niệm khoan dung, bài viết
bước đầu phân tích những biểu hiện của tư tưởng khoan dung Phật
giáo được thể hiện thông qua các phẩm hạnh: “Vị tha”, “Từ bi”,
“Bác ái”, “Lòng trắc ẩn” và đặc biệt là sự khoan hòa giữa đạo Phật
với các tôn giáo khác. Đồng thời, làm rõ ý nghĩa của tư tưởng khoan
dung Phật giáo đối với mỗi cá nhân, gia đình và xã hội trong tiến
trình hội nhập và phát triển hiện nay.
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: Thục Anh | Lượt xem: 998 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Tìm hiểu tư tưởng khoan dung của Phật giáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 10 
TÌM HIỂU TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG CỦA PHẬT GIÁO 
SV: Trần Dƣơng Linh - Võ Văn Kha 
Lớp: ĐHGDCT14A 
GVHD: ThS. Mai Thị Thanh 
Tóm tắt: Trên cơ sở vạch rõ nội hàm khái niệm khoan dung, bài viết 
bước đầu phân tích những biểu hiện của tư tưởng khoan dung Phật 
giáo được thể hiện thông qua các phẩm hạnh: “Vị tha”, “Từ bi”, 
“Bác ái”, “Lòng trắc ẩn” và đặc biệt là sự khoan hòa giữa đạo Phật 
với các tôn giáo khác. Đồng thời, làm rõ ý nghĩa của tư tưởng khoan 
dung Phật giáo đối với mỗi cá nhân, gia đình và xã hội trong tiến 
trình hội nhập và phát triển hiện nay. 
Từ khóa: Khoan dung, Khoan dung phật giáo, Phật giáo. 
1. Đặt vấn đề 
Đạo Phật là một trong những tôn giáo lớn xuất phát từ Ấn Độ. 
Ngƣời có công sáng lập ra là thái tử Tất Đạt Đa (Shidartha) sinh năm 
624 TCN thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh Phạn Vƣơng 
Đà Na (Sudhodana) trị vì nƣớc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavasu) xứ Trung 
Ấn Độ và hoàng hậu Ma Da (Ma Da). Một trong những tƣ tƣởng chủ 
đạo của Phật giáo là dạy con ngƣời hƣớng thiện, không làm điều xấu 
và có trí tuệ xây dựng cuộc sống tốt đẹp, yên vui, hạnh phúc và ấm no. 
Đƣa con ngƣời đến cõi niết bàn, cực lạc và thoát khỏi khổ đau. Cũng 
giống nhƣ một số tôn giáo khác, Phật giáo không sử dụng thuật ngữ 
khoan dung nhƣng thông qua giáo lý thì tƣ tƣởng khoan dung đƣợc 
thể hiện một cách đầy đủ qua phẩm hạnh “Vị tha”, “Từ bi”, “Bác ái” 
và “Lòng trắc ẩn”. Phật giáo với tƣ tƣởng khoan dung của mình đã 
chung sống hòa hợp với các tôn giáo khác và trở thành một trong 
những tôn giáo có số lƣợng các tín đồ đông đảo, chiếm đƣợc lòng tin 
của đại bộ phận các tầng lớp nhân dân. 
2. Nội dung 
2.1. Khái niệm khoan dung 
 Tƣ tƣởng khoan dung xuất hiện rất sớm trong lịch sử tƣ 
tƣởng triết học. Dù rằng, trong giai đoạn đầu tiên đó, thuật ngữ 
khoan dung chƣa đƣợc sử dụng thƣờng xuyên, nhƣng tinh thần của 
nó có ảnh hƣởng lớn đến giai đoạn sau. Ở phƣơng Tây Thuật ngữ 
“khoan dung” có nguồn gốc từ tiếng Latinh tolerare và tolerantia 
với nghĩa là tha thứ, ủng hộ, dung nạp. Thuật ngữ này, gắn liền với 
 11 
đời sống tôn giáo khi xuất hiện vào thế kỷ XVI trong những xung 
đột tôn giáo giữa ngƣời Công giáo và Tin lành. Trong tiếng Anh có 
chữ toleration (sự khoan dung, sự tha thứ), dùng gần nghĩa với 
benevolance (khoan dung, thiện nguyện). Ở phƣơng Đông thuật ngữ 
khoan dung xuất hiện lần đầu trong Kinh Thư. Trong đó, khoan 
dung đƣợc quan niệm là một đức tính của ngƣời quân tử bên cạnh 
tín, mẫn, huệ; “khoan” đƣợc hiểu là sự tha thứ, rộng lƣợng, khoan 
hồng, “dung” là bao dung. 
Mặc dù đƣợc đề cập và bàn luận từ lâu, song với tƣ cách là 
một thuật ngữ khoa học, khoan dung mới chỉ đƣợc nhắc tới ở Việt 
Nam từ những năm 90 của thế kỷ XX và đƣợc hiểu nhƣ một phạm trù 
đạo đức, một chuẩn mực nhân văn của con ngƣời. Trong Hán Việt từ 
điển giản yếu, học giả Đào Duy Anh cho rằng : Khoan dung là sự rộng 
rãi dung đƣợc nhiều, độ lƣợng rộng, khoan dung là lòng rộng bao 
dung. Còn Bửu Kế trong từ điển Hán Việt từ nguyên: Khoan dung là 
che chở, đùm bọc, bao dung kẻ khác; Hoàng Phê trong từ điển tiếng 
Việt: Khoan dung là rộng lƣợng tha thứ cho ngƣời có lỗi lầm; trong từ 
điển bách khoa Việt Nam: Khoan dung là thái độ ứng xử rộng lƣợng 
của ngƣời trên đối với kẻ dƣới quyền. Nhƣ vậy, khoan dung có rất 
nhiều cách hiểu khác nhau. Cách hiểu phổ biến nhất là chỉ sự tha thứ 
của ngƣời trên đối với kẻ dƣới, song nghĩa rộng nhất chúng ta có thể 
hiểu: Khoan dung chỉ thái độ chấp nhận khác biệt có phê phán trong 
mức độ đối thoại để cùng phát triển, không phân biệt cao thấp, sang 
hèn, văn minh hay không văn minh. Nhƣ vậy, việc sử dụng thuật ngữ 
khoan dung chƣa có sự thống nhất về nội hàm nên dẫn đến có nhiều 
cách hiều khác nhau. Có khi khoan dung đƣợc hiểu là thái độ, cách 
ứng xử có liên quan đến tôn giáo, thƣờng chỉ tình yêu thƣơng, bao 
dung, độ lƣợng giữa con ngƣời với con ngƣời. Khác với Phật giáo thì 
Nho giáo coi khoan dung là một phẩm tính của ngƣời quân tử và nội 
hàm thiên về thái độ ứng xử của bề trên đối với kẻ dƣới, của ngƣời có 
quyền đối với ngƣời không có quyền. Song thực tế khoan dung còn 
đƣợc đề cập ở nhiều lĩnh vực khác. Ngày nay, khoan dung bao hàm ý 
nghĩa là một sự đối thoại ngay cả với những ngƣời có tín ngƣỡng, có 
niềm tin trái ngƣợc nhau. 
Trƣớc những đổi thay của xu thế toàn cầu hoá hiện nay, khi các 
nƣớc ngày càng gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau, bên cạnh sự đụng độ về 
kinh tế và về chính trị, sự đụng độ về văn hoá và văn minh đã và đang 
xảy ra thì khoan dung là một thuật ngữ thƣờng xuyên đƣợc nhắc đến 
 12 
trong quan hệ giữa các khu vực và các dân tộc. Để vạch rõ nội hàm của 
khái niệm khoan dung, tìm ra một khuôn mẫu cho thế giới hiện đại của 
thế kỷ XIX, UNESCO trong bản Tuyên ngôn những nguyên lý về 
khoan dung đã xác định bốn khía cạnh chủ yếu của tƣ tƣởng khoan 
dung có tác động tích cực đến việc xây dựng xã hội hoà bình. Theo đó, 
“Khoan dung là một hình thức tự do, tự do về tƣ tƣởng, tự do về pháp 
lý. Một con ngƣời khoan dung là ngƣời làm chủ về tƣ tƣởng và hành 
động của mình. Khoan dung là một thái độ ứng xử tích cực, không 
hàm ý mang ơn hay hạ mình chiếu cố đối với ngƣời khác. Khoan dung 
là thừa nhận và chấp nhận sự khác biệt. Đó là học cách nghe, cách 
thông tin và cách hiểu ngƣời khác. Khoan dung là chấp nhận sự đa 
dạng của các nền văn hóa, là sự cởi mở đối với những tƣ tƣởng triết lý 
khác mình, là sự ham học hỏi, tìm hiểu những điều bổ ích để làm giàu 
cho bản thân, không bác bỏ những gì mà mình chƣa biết. Khoan dung 
là tôn trọng quyền và tự do của ngƣời khác. Khoan dung là sự thừa 
nhận không có một nền văn hóa, một quốc gia hay một tôn giáo nào 
độc tôn về tri thức và chân lý” [3, tr.29]. 
 Nhƣ vậy, khoan dung là sự tôn trọng, chấp nhận và đề cao sự đa 
dạng, là sự hòa hợp trong sự khác biệt. Trên tinh thần đó, Phật giáo với 
tƣ tƣởng khoan dung đã bù đắp cho những mảnh đời đau khổ, bất hạnh 
của con ngƣời. Các cơ sở thờ tự là nơi nƣơng tựa của những ngƣời già 
neo đơn không ngƣời thân, trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi,Từ những việc 
làm thiết thực mà Phật giáo ngày càng cần thiết đối với con ngƣời hiện 
đại trƣớc những thách thức ngày càng nhiều và phức tạp. 
2.2. Một số biểu hiện của tư tưởng khoan dung Phật giáo 
 Khoan dung là một trong những tƣ tƣởng cốt lõi của Phật giáo. 
Nó đƣợc biểu hiện qua nhiều phƣơng diện nhƣ: yêu thƣơng con ngƣời, 
tôn trọng phẩm hạnh ở mỗi ngƣời và khoan hòa với các tôn giáo khác. 
Lòng yêu thƣơng con ngƣời đƣợc thể hiện thông qua giáo lý, giáo luật 
của Phật giáo, trong đó biểu hiện rõ nhất ở tính “Vị tha”, “Từ bi”, 
“Bác ái”, “Lòng trắc ẩn” và sự khoan hòa với các tôn giáo khác. 
2.2.1. Vị tha 
Vị tha đƣợc hiểu một cách đơn giản là vì ngƣời khác, biết yêu 
thƣơng nhƣờng nhịn, san sẻ với ngƣời khác, vốn là hình thức ứng xử 
“thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân” hay “lá lành đùm lá rách” trong 
lối sống của ngƣời Việt, nhƣng cũng là yêu cầu cơ bản của giáo lí đạo 
 13 
Phật. Một trong những con đƣờng tu tập hoàn thiện bản thân đó là 
thực hiện lòng vị tha. 
Thật vậy, vị tha là pháp hạnh vô cùng cần thiết mà hàng đệ tử 
Phật cần rèn luyện để tạo dựng cuộc hòa hợp, an vui, giải thoát mình 
và giải thoát mọi ngƣời. Nói cách khác, lòng vị tha đƣợc xây dựng 
trên nền tảng từ bi và vô ngã, nghĩa là xuất phát từ tình yêu thƣơng 
con ngƣời biết đặt mình vào hoàn cảnh của ngƣời khác để cảm nhận 
và chia sẻ cảm thông trƣớc nỗi buồn hay những khó khăn của mọi 
ngƣời, trƣớc hoàn cảnh đó, nếu chúng ta có thể giúp đƣợc họ vƣợt 
qua khó khăn và có cuộc sống tốt đẹp hơn, thì hãy sẵn lòng mở rộng 
vòng tay để giúp dù có hy sinh lợi ích của bản thân mình để đổi lại 
hạnh phúc, niềm vui cho mọi ngƣời. Ngƣời có lòng vị tha họ luôn 
suy nghĩ cho ngƣời khác, tha thứ những lỗi lầm của họ. Chính phẩm 
chất tốt đẹp này là sợi dây gắn kết mọi ngƣời lại với nhau tạo nên 
một đoàn thể. Vị tha không chỉ đơn giản thể hiện qua cách thức hay 
hành vi ứng xử mà còn thể hiện trong lời nói. Chẳng hạn nhƣ những 
lời chúc thân tình trong ngày đầu năm mới cũng thể hiện lòng vị tha, 
ở đó ngƣời ta dành cho nhau những ƣớc muốn chân thành, có thể là 
tiền tài, danh vọng, sức khỏe. 
Tuy nhiên, để tha thứ cho một ngƣời nào đó có tâm hại mình là 
một điều không dễ chút nào nhƣng với phật tính vị tha chúng ta sẽ làm 
đƣợc tất cả. Nếu ngƣời nào không thể tha thứ cho ngƣời mắc lỗi mà cứ 
nuôi dƣỡng sự hận thù thì tâm xấu này sẽ ảnh hƣởng đến bản thân 
ngƣời đó. Nó khiến cho bản thân luôn căng thẳng, khó chịu, bất an và 
tất nhiên nó sẽ ảnh hƣởng đến sức khỏe, công việc của bạn. Nhƣ vậy, 
chúng ta nên suy nghĩ một cách đơn giản hơn, một cách mà chính tôi 
thƣờng làm và tôi thƣờng nghĩ khi gặp vấn đề nhƣ thế là: trong cuộc 
đời này, ngƣời nào cũng từng mắc sai lầm, không ai hoàn hảo. Họ nói 
điều ác, hành động không tốt, chắc có lẽ vì họ không biết hay vô ý. 
Nếu biết hậu quả nghiêm trọng chắc họ không dám làm. Nghĩ nhƣ vậy 
bạn sẽ dễ bỏ qua những sai lầm của ngƣời khác hơn. Nhờ có phật tính 
vị tha mà chúng ta có thể sống tốt hơn, có lối ứng xử văn hóa hơn, 
giúp cuộc sống chúng ta có ý nghĩa hơn. Nếu không có vị tha sẽ 
không có phật pháp và đạo Phật. Nếu không có vị tha con ngƣời khó 
trở nên hoàn thiện chính mình và xã hội khó mà hòa hợp. 
2.2.2. Từ bi 
Từ là làm cho vui, Bi là cứu khổ diệt khổ. Nói một cách khái 
quát Từ Bi là tạo ra niềm vui, niềm hạnh phúc đồng thời diệt trừ 
 14 
những ác tính, khổ đau cho tất cả mọi loài chúng sinh, làm cho cuộc 
sống khoan hòa hơn. Vì thế trong cuộc sống nếu một cá nhân nào gặp 
khó khăn hay chuyện không may xảy ra thì mọi ngƣời ra tay giúp đỡ 
để họ vƣợt qua khó khăn, thoát khỏi vòng khổ ải, không có thái độ thờ 
ơ hay làm ngơ trƣớc sự đau khổ của ngƣời khác. Nếu không làm nhƣ 
vậy sẽ đánh mất tinh thần cứu thế của đạo Phật. Có thể nói Bi là nhân 
và Từ là quả của Bi. Bởi vậy, tƣ tƣởng “đồng thể đại bi” có ý nghĩa rất 
nhân văn. Do đó, thấy ngƣời khác chết đuối nhƣ chính mình bị chết 
đuối, thấy ngƣời khác đói nhƣ chính mình bị đói, thấy ngƣời khác khổ 
nhƣ chính mình bị khổ. Vì thế chúng ta cần mở rộng tấm lòng với tất 
cả mọi ngƣời, không phân biệt giàu nghèo, bé lớn, đẳng cấp và tôn 
giáo, “Thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân” niềm hạnh phúc của ngƣời 
khác cũng là niềm vui của mình. Làm đƣợc nhƣ thế, mọi ngƣời sẽ cảm 
thấy lòng mình nhẹ nhàng, thanh thản, vui mừng, nhƣng làm xong một 
việc tốt đó thì chúng ta nên quên nó đi không nên lƣu giữ trong tâm 
thức bởi khi chúng ta lƣu giữ lại trong tâm thức thì chúng ta cảm thấy 
mình đã hoàn hảo, đã tốt rồi và sẻ không làm tốt ở những việc sau. 
Phật giáo chỉ rõ, tính sân giận, oán hờn của con ngƣời là một 
nguyên nhân lớn gây ra khổ đau cho chính họ. Sự oán giận có thể 
đánh mất hạnh phúc giữa những ngƣời thân nhƣ vợ chồng, anh em, họ 
hàng, bạn bè Sự chém giết, khủng bố và chiến tranh giữa các phe 
phái, các nƣớc vì màu da, tôn giáo tất cả đều do sân hận mà ra, nó 
tồn tại trong tiềm thức ở trong mỗi con ngƣời, có dịp là nó bùng nổ. 
Vì thế, từ thời xa xƣa đến bây giờ, giết chóc, chiến tranh luôn luôn 
xảy ra không ở nơi này thì ở nơi khác, không sao dứt đƣợc cảnh khổ; 
Phật giáo có phƣơng cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân 
hận oán hờn, đó là phƣơng thuốc diệt khổ. Vì thế chúng ta cần “quán 
Từ Bi”, tức là quan sát khắp vạn loài chúng sinh để tìm mọi cách đem 
đến cho họ niềm vui, đồng thời giúp họ diệt trừ nghiệp chƣớng và dẫn 
họ đến con đƣờng giác ngộ. Nếu ai còn chấp nhất mà không quên 
đƣợc sự sân hận của mình thì không phải là tín đồ của Phật giáo. 
2.2.3. Bác ái 
Phật giáo quan niệm rằng, Bác ái là yêu thƣơng tất cả mọi 
ngƣời, không phân biệt ngƣời thiện hay ngƣời ác. Trong tƣ tƣởng phật 
giáo tình yêu thƣơng con ngƣời đƣợc chảy đều cho tất cả mọi ngƣời 
không phân biệt và đối xử đối tƣợng này hay đối tƣợng khác. Nó đƣợc 
thể hiện qua việc làm của Đức Phật nhƣ: nộp mình cho con hổ đói ăn 
 15 
thịt vì nó sắp ăn thịt con của nó dù biết nó là một loài mãnh thú hung 
hãn nó sẽ ăn thịt Ngài. Và một lần ngƣời nhìn thấy một số ngƣời trong 
đạo Bà-la-môn đói thì Đức Phật đã nƣớng mình làm thức ăn, giúp họ 
qua cơn đói khát. Điều này chứng tỏ rằng: khi chúng ta yêu thƣơng 
mọi ngƣời tức có lòng bác ái thì đem lại hạnh phúc cho mọi ngƣời và 
chính bản thân chúng ta, từ đó tránh đƣợc những hận thù, mâu thuẫn. 
Lòng bác ái là sợi dây gắn kết mọi ngƣời lại gần nhau, yêu thƣơng 
nhau hơn, tránh phân biệt giữa ngƣời này với ngƣời kia, giữa tôn giáo 
này với tôn giáo khác gây chia rẽ bè phái, đấu tranh và sát hại lẫn 
nhau. Nhờ có tinh thần bác ái mà Phật giáo chung sống một cách hòa 
hợp đƣợc với các tôn giáo khác. 
2.2.4. Lòng trắc ẩn 
Lòng trắc ẩn là một phẩm chất đáng quý của con ngƣời, đƣợc 
hình thành qua quá trình giáo dục và thể hiện nếp sống của cá nhân trong 
phạm trù đạo đức. Theo đạo Phật quan niệm thì lòng trắc ẩn là sự cảm 
thông sâu sắc đối với mọi ngƣời, sẵn sàng đặt mình vào vị trí của ngƣời 
khác, là tạm thời quên mình để hiểu ngƣời khác và học cách yêu thƣơng 
họ. Lòng trắc ẩn không chỉ thể hiện ở những việc làm lớn lao mà còn 
đƣợc thể hiện qua những việc làm đơn giản hằng ngày nhƣ giúp đỡ một 
ngƣời ăn xin, gọi xe cứu thƣơng cho ngƣời gặp nạn Những việc làm 
này tƣởng chừng rất nhỏ nhƣng lại có ý nghĩa rất lớn, vì thế chúng ta 
không nên do dự trƣớc một việc làm tốt, có ý nghĩa. Khi gặp những 
ngƣời có hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh, chúng ta tìm hiểu nguyên nhân, 
hoàn cảnh của họ để giúp đỡ, nếu ngoài khả năng thì có thể kêu gọi sự 
giúp đỡ của các tổ chức xã hội, của cộng đồng. Nhờ có lòng trắc ẩn 
chúng ta sẽ phần nào hiểu hơn về những khó khăn, nỗi khổ đau và bất 
hạnh cũng nhƣ những tuyệt vọng của ngƣời khác, từ đó có sự cảm thông, 
chia sẻ để cùng nhau vƣơn tới cuộc sống an vui, hạnh phúc. 
2.2.5. Sự khoan hòa giữa đạo Phật với các tôn giáo khác 
 Phật giáo là một tôn giáo lớn và có số lƣợng tín đồ đông, song 
với tƣ tƣởng khoan dung của mình đạo Phật luôn tôn trọng các tôn giáo 
khác, không xem tôn giáo mình là trên hết. Xem giáo lý, giáo luật và tƣ 
tƣởng của các tôn giáo khác điều là hữu ích, đều đáng trân trọng. 
Không có sự kỳ thị, phân biệt mà luôn dung hòa với các tôn giáo bản 
địa. Khi du nhập vào việt nam thì tƣ tƣởng khoan dung của đạo Phật 
còn đƣợc thể hiện qua tinh thần “Tam giáo đồng nguyên” với Nho giáo 
và Đạo giáo. Sự khoan dung của Phật giáo còn đƣợc thể hiện ở nơi thờ 
 16 
tự, trong chùa không chỉ thờ Phật A Di Đà, Thích Ca Mâu Ni, Di Lặc, 
các vị La Hán, Bồ Tát... mà ở đấy, ta còn thấy các vị thánh, thần, tiên, 
mẫu... của tôn giáo và tín ngƣỡng bản địa, hoặc những danh nhân văn 
hóa lịch sử; không chỉ trong nƣớc mà cả nƣớc ngoài. Hầu hết ngôi chùa 
Phật giáo có ban hoặc điện Mẫu Tam phủ, Tứ phủ; không ít chùa thờ 
các danh nhân văn hóa, lịch sử, ngƣời có công với cộng đồng, dân tộc, 
hoặc những ngƣời có công xây cất, tôn tạo ngôi chùa... Gần đây, nhiều 
ngôi chùa có bàn thờ Bác Hồ và có vị sƣ trụ trì ngôi chùa. Chùa thờ 
Phật nhiều khi cũng thờ thêm các vị thánh nhân của đạo Lão mà dân tin 
cậy, ngóng chờ, hy vọng, nhƣ Chùa Thày ở Sài Sơn. Chùa Châu Đài ở 
Thƣợng Cát (Từ Liêm, Hà Nội) mà dân chúng nhiều đời thƣờng gọi là 
“đền Tam giáo” từ lâu đã thờ trên cao nhất là Lạc Long Quân, Âu Cơ, 
Đức Thích Ca, Quan Âm, Từ Lộ, Khổng Tử, Trần Hƣng Đạo, Thái 
Thƣợng Lão quân cùng 12 vị Tiên Đồng Ngọc Nữ. Ở một số chùa khác, 
chúng ta cũng thƣờng gặp các Đức Phật chung bệ thờ với đức Thánh 
Tản Viên, bà Chúa Liễu Hạnh Cổng chùa luôn là nơi mà ai có đau 
khổ, có bức xúc đều đƣợc tiếp đón, không kể thành phần xuất thân, 
không phân biệt nguồn gốc tôn giáo. 
Nhƣ vậy, tƣ tƣởng khoan dung của Phật giáo không chỉ đƣợc 
thể hiện ở lòng vị tha, từ bi, bác ái và lòng trắc ẩn mà còn đƣợc thể 
hiện ở sự khoan hòa với các tôn giáo khác. Khoan dung của Phật giáo 
chính là yêu thƣơng tất cả mọi ngƣời không phân biệt xuất thân, thành 
phần xã hội, chấp nhận cùng tồn tại và phát triển bên cạnh các tôn 
giáo khác. Việt Nam là một quốc gia có đa tôn giáo, tín ngƣỡng khác 
nhau, nhƣng trong lịch sử chƣa từng xảy ra chiến tranh tôn giáo. Có 
đƣợc điều đó là nhờ truyền thống khoan dung của ngƣời Việt và đặc 
điểm đan xen, hòa đồng, khoan dung của tôn giáo, tín ngƣỡng ở Việt 
Nam. Khoan dung sẽ tạo ra sự ổn định, hòa bình, một môi trƣờng sống 
an toàn cho nhân loại. Đồng thời khoan dung giúp cho mỗi cá nhân, 
gia đình và xã hội ngày càng có sự gắn kết, phát triển, hoàn thiện. Con 
ngƣời sống tốt hơn, yêu thƣơng và chung tay xây dựng một thế giới 
hòa bình, phồn vinh và hạnh phúc. 
2.3. Ý nghĩa hiện thời của tư tưởng khoan dung Phật giáo 
 Tƣ tƣởng khoan dung Phật giáo đóng vai trò hết sức quan 
trọng đối với sự phát triển của Phật giáo, nó là điều kiện để giao lƣu, 
hòa nhập với các tôn giáo, tạo sự gắn kết giữa các tín đồ, phật tử 
trong nƣớc cũng nhƣ trên thế giới. Khoan dung còn có ý nghĩa đặc 
 17 
biệt quan trọng trong quá trình truyền bá Phật giáo, giáo dục con 
ngƣời đi đến hoàn thiện nhân cách, phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Với 
tình yêu thƣơng con ngƣời và lòng từ bi bác ái, Phật giáo ngày càng 
đến gần hơn với quần chúng nhân dân, ăn sâu vào tƣ tƣởng của mỗi 
cá nhân con ngƣời. Tƣ tƣởng khoan dung của Phật giáo góp phần cho 
sự thành công của cá nhân, sự gắn bó của gia đình và sự phát triển, 
đồng thuận của xã hội. 
 Thứ nhất, đối với cá nhân: Ngƣời có lòng khoan dung sẽ cảm 
thấy hạnh phúc, có lối ứng xử thông minh, hòa nhập với xã hội tạo 
thêm mối quan hệ giúp cho việc ngoại giao dễ dàng và khả năng thành 
công trong công việc là rất cao. Ngƣời có lòng khoan dung luôn vui 
vẻ, không hận thù và luôn nghĩ cho lợi ích của tập thể hơn lợi ích của 
bản thân. Ngƣời có lòng khoan dung luôn đƣợc mọi ngƣời coi trọng 
và khẳng định giá trị bản thân của họ. Khoan dung giúp cho thân thể 
con ngƣời khỏe mạnh, dễ dàng làm nên việc lớn và đƣa con ngƣời trở 
về với bản chất của chính mình và khoan dung làm cho con ngƣời ta 
có nhiều niềm vui, hạn chế những hận thù, thân thiện với nhau hơn mà 
bớt đi sự cô đơn và tẻ nhạt trong cuộc sống. 
 Thứ hai, đối với gia đình: Gia đình là tế bào của xã hội, gia 
đình ổn định và phát triển thì xã hội mới ổn định và phát triển. Khoan 
dung giúp cho mọi ngƣời sống với nhau một cách hòa thuận, không 
hơn thua, ganh ghét lẫn nhau. Không vì lợi ích nhỏ mà bỏ đi tình thân, 
có nhƣ thế mới là một gia đình văn minh, hạnh phúc. Các thành viên 
trong gia đinh biết chấp nhận sự khác biệt về tính cách, thói quen của 
các thành viên khác, bỏ qua những lỗi lầm và cho họ cơ hội để sửa 
chữa những sai lầm mà họ phạm phải. Tha thứ những lỗi lầm nhƣng 
đồng thời phải góp ý, phân tích đúng sai, để các thành viên trong gia 
đình hoàn thiện bản thân. Đứng trên lập trƣờng giáo dục thì hạn chế 
cảnh chồng đánh vợ, cha đánh con và cả sự thù hằn lẫn nhau.Thay vào 
đó bằng sự tha thứ, lòng khoan dung và cả những lời dạy bảo hết sức 
ân cần của ngƣời chồng dành cho vợ, của các bậc phụ huynh dành cho 
con cái, và ngƣợc lại con cái cũng phải biết kính trọng, biết nghe lời 
và phải hiếu thảo, giúp đời sống gia đình trở nên tốt đẹp, gắn bó và 
yêu thƣơng lẫn nhau, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ ” vì thế, khoan 
dung là nền tảng của một gia đình hạnh phúc. 
 Thứ ba, đối với xã hội: Khoan dung là sợi dây gắn kết mọi 
ngƣời lại với nhau từ đó thấu hiểu tâm tƣ, tình cảm và hoàn cảnh của 
 18 
nhau để cùng sẽ chia, giúp đỡ và cùng tiến bộ. Ngày nay tƣ tƣởng 
khoan dung của Phật giáo đƣợc mọi ngƣời vân dụng làm cơ sở đễ đối 
xử với nhau. Điều đó đƣợc thể hiện thông qua các chƣơng trình nhƣ: 
“trái tim nhân ai”, “Chắp cánh ƣớc mơ”, “Lục lạc vàng”, “Chuyến xe 
nhân ái’’,Điều đó chứng mình đƣợc con ngƣời luôn yêu thƣơng lẫn 
nhau. Không những thế, khoan dung còn là cầu nối giúp cho việc giao 
lƣu văn hóa thuận lợi giữa các quốc gia trong khu vực, họp tác giữa 
các nƣớc trên thế giới dựa trên nguyên tắc: hợp tác, hòa bình, hữu 
nghị giữa các quốc gia. Giải quyết các xung đột bằng biện pháp hòa 
bình, chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác cùng phát triển. Khoan 
dung còn là điều kiện, là phƣơng tiện và cũng là nền tảng để các 
doanh nghiệp, các quốc gia có thể chấp nhận sự khác biệt để gần nhau 
hơn, hợp tác và phát triển bền vững. Một lần nữa, giá trị khoan dung 
đang giúp đất nƣớc phát huy mọi nguồn lực để đƣa Việt Nam “sánh 
vai cùng cƣờng quốc năm châu”, phát triển kinh tế, bảo vệ tổ quốc 
trƣớc mọi xâm lƣợc. Nhƣ vậy, tƣ tƣởng khoan dung phật giáo có ý 
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Phật giáo, trong giáo dục 
con ngƣời, trong gia đình và ngoài xã hội. Nơi đâu có lòng yêu thƣơng 
con ngƣời, lòng nhân ái, lòng nhân đạo, lòng từ bi,thì nơi đó có 
khoan dung. Nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến con ngƣời và xã 
hội. Thúc đẩy sự đi lên, đi đến cái tốt đẹp, cái hoàn thiện nhất. 
3. Kết luận 
Tƣ tƣởng khoan dung của Phật giáo là một tƣ tƣởng có ý nghĩa 
sâu sắc đối với các tín đồ và các tầng lớp khác trong xã hội. Nhờ có 
khoan dung mà con ngƣời sống tốt hơn, biết đoàn kết, yêu thƣơng mọi 
ngƣời cho dù đó không phải là ngƣời thân của mình. Khoan dung 
không chỉ giới hạn trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức và thể hiện 
tôn trọng tự do tín ngƣỡng mà nó còn trở thành điều kiện thể hiện tôn 
trọng sự sống, hƣớng đến sự bình đẳng, thoát khỏi những khổ đau, xây 
dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa tôn giáo với tôn giáo, giữa con ngƣời 
với con ngƣời trong xã hội. Đặc biệt, trong xã hội toàn cầu hóa hiện 
nay, khoan dung tôn giáo nói chung, khoan dung Phật giáo nói riêng 
đƣợc xem nhƣ một nguyên tắc để cùng hội nhập trong thế giới đa tôn 
giáo hiện nay. Đối với Việt Nam, khoan dung tôn giáo của Phật giáo 
đƣợc tiếp biến, phát huy đặc sắc trong Phật giáo Việt Nam, qua đó đã 
tạo nên những kì tích, đã dựa trên nguyên tắc lấy sự ổn định của cả 
dân tộc, lấy hạnh phúc, lợi ích và thịnh vƣợng của cả dân tộc làm mục 
tiêu phấn đấu chung. Tƣ tƣởng khoan dung của Phật giáo góp phần 
 19 
làm mạnh hơn khối đại đoàn kết Phật giáo Việt Nam cũng nhƣ dân tộc 
Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập với thế giới hiện nay. 
Tài liệu tham khảo 
[1]. Nguyễn Thị Phƣơng Mai (2007), “Khoan dung thuật ngữ và sự 
vận động của nó trong lịch sử triết học phƣơng tây”, Tạp chí Triết học, 
số 8 (195), tr.41 – 46. 
[2]. Nguyễn Thị Phƣơng Mai (2012), Tư tưởng khoan dung và ý nghĩa 
hiện thời của nó, Luận án tiến sỹ triết học, Hà Nội. 
[3]. Trần Đăng Sinh - Đào Đức Doãn ( 2011), Giáo trình Tôn giáo 
học, Nxb. Đại Học sƣ phạm, Hà Nội. 
[4]. Phạm Sơn Tùng - Nguyễn Hoàng Đăng (2012), Học cách khoan 
dung, Nxb. Văn hóa-Thông tin. 
[5]. Huỳnh Khái Vinh - Nguyễn Thanh Tuấn (2004), Bàn về khoan 
dung trong văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội. 
[6]. Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. 
Tôn giáo, Hà Nội. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tim_hieu_tu_tuong_khoan_dung_cua_phat_giao.pdf tim_hieu_tu_tuong_khoan_dung_cua_phat_giao.pdf