Tổng kết các mặt hoạt động của viện năng lượng nguyên tử Việt Nam năm 2012

Ngày 4 tháng 1 năm 2013, tại Hà Nội, Viện Năng lượng nguyên tử Việt

Nam (Viện NLNTVN) đã tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác năm 2012.

Tại Hội nghị, TS. Cao Đình Thanh, Phó Viện trưởng Viện NLNTVN, đã

trình bày báo cáo tổng kết hoạt động năm 2012, trong đó nêu bật đặc điểm

tình hình, thuận lợi, khó khăn của Viện trong năm qua, các kết quả hoạt

động chủ yếu trên nhiều mặt công tác của Viện, những tồn tại cần khắc

phục, các nhiệm vụ trọng tâm cho năm 2013 và một số đề xuất kiến nghị

với lãnh đạo cấp trên. Thông tin Khoa học và Công nghệ hạt nhân xin giới

thiệu với bạn đọc những thông tin chính về các mặt hoạt động của Viện

NLNTVN năm 2012 được nêu ra từ báo cáo này.

pdf44 trang | Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 328 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tổng kết các mặt hoạt động của viện năng lượng nguyên tử Việt Nam năm 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
úng ta sẽ thu được điện năng. [14] Việc xây dựng thành công một lò phản ứng nhiệt hạch có khả năng hoạt động sẽ là một bước ngoặt theo đúng nghĩa của nó, thế nhưng khi những nhà điều hành năng lượng tập hợp lại và thảo luận về việc thương mại hóa ý tưởng này thì câu hỏi được đưa ra không phải là “nó có hoạt động hay không?” mà là “chi phí của nó sẽ là bao nhiêu?” Câu hỏi này vẫn chưa có lời đáp, nhưng thoáng nhìn vào khả năng của nhà máy điện ta có thể có được một số gợi ý cho câu trả lời. Dù là nhà máy điện hạt nhân loại nào đi nữa thì giá điện cũng phụ thuộc lớn vào hiệu quả hoạt động của nhà máy ấy. Quy trình sản xuất điện của một nhà máy nhiệt hạch bất kỳ được mô tả theo sơ đồ sau: [6] Trong công thức trên, Epump là năng lượng đưa vào viên nhiên liệu DT trong mỗi phát bắn, f là tần số của hệ thống (số phát bắn mỗi giây), và G là tỷ số giữa năng lượng nhiệt hạch tạo ra và năng lượng đưa vào. Còn ηth và ηpump tương ứng với hiệu suất động cơ nhiệt và hiệu suất đưa năng lượng vào. Thông thường, động cơ nhiệt có hiệu suất tối đa là 40%, nên ηth sẽ nằm trong khoảng từ 0.3–0.4. Tuy nhiên, hiệu suất đưa năng lượng vào thay đổi trong khoảng rộng. Đối với hệ thống laser được bơm bằng đèn flash của thiết bị NIF thì ηpump = 0.66%, nhưng với công nghệ bơm bằng laser diode được sửa dụng cho laser Mercury của Phòng thì nghiệm quốc gia Lawrence Livermore thì có thể tăng hiệu suất bơm lên tới 5%-13%. [9] Để mạng lại lợi nhuận, một nhà máy điện cần phải tạo ra nhiều năng lượng hơn năng lượng mà nó tiêu thụ. Trong thực tế, chúng ta mong đợi năng lượng tạo ra phải lớn hơn năng Hình 6. Chu trình nhiên liệu mở (không tái xử lý) trong LIFE urani tự nhiên hoặc urani nghèo plutoni trong vũ khí độ sinh năng lượng từ phản ứng tổng hợp độ sinh năng lượng độ sinh năng lượng toàn phần các sản phẩm phân hạch độ sâu cháy > 99% nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng 29Số 34 - Tháng 3/2013 THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN lượng đầu vào rất nhiều (ít nhất là gấp 3 lần), từ đó chúng ta có thể đưa ra điều kiện sau: Đối với thiết bị NIF được thiết lập như hiện nay, thì tỉ số G phải lớn hơn 1200. Rõ ràng con số là quá lớn đối với NIF. Tuy nhiên, khi chuyển từ hệ thống bơm bằng đèn flash sang sử dụng hệ thống bơm bằng laser diode thì hiệu suất bơm ηpump tăng 10 lần, khi đó tỉ số G sẽ chỉ cần lớn hơn 65 - 170. Đó là một điều kiện có thể chấp nhận được. Cũng lưu ý rằng giới hạn tỉ số G hiện tại của NIF là khoảng 20. Công nghệ đánh lửa nhanh và công nghệ LIFE đều có tiềm năng nâng tỉ số G lên gấp 10 lần, đem lại khả năng phá vỡ điều kiện trên. Đó cũng chính là lý do các nhà khoa học đang đẩy mạnh nghiên cứu những công nghệ mang tính đột phá như laser diode, đánh lửa nhanh và lò phản ứng LIFE. Hệ số 10 tạo nên sự khác biệt lớn trong việc giải bài toán về tỉ số G. Chỉ cho đến khi chúng ta đạt được hệ số 10 này, chúng ta mới có cơ hội ước tính chính xác giá điện. Năng lượng nhiệt hạch giam giữ quán tính là một công nghệ đang còn trong quá trình phát triển và có thể những hạn chế về khoa học, kỹ thuật và vấn đề tài chính sẽ là rào cản dẫn tới sự thành công của công nghệ này. Tuy nhiên, đây là những khó khăn chung của tất cả những nghiên cứu cơ bản. Nếu vượt qua được những trở ngại này, chúng ta sẽ có cơ hội tạo ra một nguồn năng lượng sạch, vô tận và không mang tính phố biến vũ khí. Liệu NIF có thực hiện được giấc mơ ấy, chỉ có thời gian mới trả lời được điều này. Đỗ Văn Lâm, biên dich Tài liệu tham khảo [1] D. Keefe, “inertial Confinement Fusion,” Ann. Rev. Nucl. Part. Sci. 32, 391 (1982). [2] T. J. M. Boyd and J. J. Sanderson, The Physics of Plasmas (Cambridge, 2003). [3] G. Yonas, “Fusion and the Z-Pinch”. Sci. Am. 279, No. 2, 40 (1998). [4] S. H. Glezner et al., “Symmetric Inertial Confinement Fusion Implosions at Ultra-High Laser Energies”. Science 327, 1228 (2010). [5] J. Jacquinot, “Fifty Years in Fusion and the Way Forward,” Nucl. Fusion 50, 014001 (2010). [6] J. Nuckolls, L. Wood, A. Thiessen & G. Zimmerman, “Laser Compression of Matter fo Super-High Densities: Thermonuclear (CTR) Applications,” Nature 239, 139 (1972). [7] J. Paisner, E. Campbell and W. Hogan, “The National Ignition Facility,” Lawrence Livermore National Laboratory, UCRL-JC-117397, June 1994. [8] E. I. Moses, “Ignition on the National Ignition Facility” a Path Towards inertial Fusion Energy,” Nucl. Fusion 49, 104022 (2009). [9] J. Caird et al., “Nd:Glass Laser Design for Laser ICF Fission Energy (LIFE),” Fusion Sci. Technol. 56, 607 (2009). [10] H. Azechi et al., “The FIREX Program on the Way to Inertial Fusion Energy,” J. Phys: Conf. Series 112, 012002 (2008). [11] S. Atzeni et al., “Studies on Targets for Inertial Fusion Ignition Demonstration at the HiPER Facility,” Nucl. Fusion 49, 055008 (2009). [12] J. Chittendon, “The Z-Pinch Approach to Fusion,” Physics World 13, No. 5, 39 (2000). [13] J.C. Farmer, “LIFE Materials: Overview of Fuels and Structural Materials Issues” Lawrence Livermore National Laboratory, LLNL-TR-407386, October 2009. [14] Back to the Future, Dir. R. Zemeckis. Universal Pictures: 1985, Film. Hình 7. Chu trình năng lượng của một nhà máy nhiệt hạch. Năng lượng sinh ra từ sự đánh lửa cần lớn hơn năng lượng gây ra sự đánh lửa. Đánh lửa Động cơ nhiệt Bơm (laser, Z-pinch v.v...) THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 30 Số 34 - Tháng 3/2013 Năm qua có thể là một năm chua chát đối với giá urani, nhưng năm 2012 đã đem lại nhiều dấu hiệu tích cực cho thị trường urani- nhất là trong nửa cuối năm 2012. Dấu hiệu này là tín hiệu đảo chiều đối với giá urani và cổ phiếu khai khoáng urani. Thị trường urani trải qua một quảng đường dài và chông gai để tiến tới hồi phục kể từ khi suy thoài tài chính năm 2008 ảnh hưởng đến ngành khoáng sản. Suốt sáu tháng cuối năm 2010-lúc các nhà đầu tư hân hoan khi giá tại thời điểm của U3O8 hơn 30 đôla/lb, thậm chí còn chạm tới 72 đôla/lb trong tháng Giêng năm 2011. Tuy nhiên, ngành công nghiệp vấp phải thảm họa hạt nhân ở Fukushima Daiichi-Nhật Bản trong tháng 3 năm 2011, thảm họa đã quét sạch những thành quả gặt hái được và giá tại thời điểm chỉ còn khoảng 49 đôla/lb và 52 đôla/lb trong gần một năm. Trong năm 2012, tình hình bất ổn là yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến giá khoáng sản. Trước đây các quốc gia dựa vào điện hạt nhân như Nhật Bản và Đức đưa ra tín hiệu là các nước này có thể đóng cửa chương trình hạt nhân của mình, trong khi urani tràn ngập thị trường có thể làm cho khách mua ngần ngại mua với giá 50 đôla/lb, khiến cho giá tại thời điểm giảm xuống còn 40 đôla/lb vào đầu quí 4/2012. Sự kiện quan trọng nhất trong năm 2012 mới xảy ra trong tháng 12 khi Đảng Dân chủ Tự do ở Nhật Bản- đảng ủng hộ điện hạt nhân-thắng cử trong cuộc bầu cử ở Nhật Bản. Tình hình cho thấy hình như sẽ có một chương trình tái khởi động 48 lò phản ứng hạt nhân của quốc gia này nhanh hơn. David Talbot, nhà phân tích urani của công ty bảo hiểm Dundee Securities, tin là năm 2013 sẽ khơi dậy điện hạt nhân toàn cầu. Tuy nhiên, những vấn đề cơ bản cung và cầu dẫn đến sự hồi phục hạt nhân sẽ không ảnh hưởng tí gì đến giá cả trên thị trường cho tới sáu tháng cuối năm 2013, khi các lò phản ứng của Nhật Bản vốn bị dừng hoạt động lại được đưa vào vận hành. NHU CẦU URANI TĂNG MẠNH Các nhà phân tích tin tưởng một triển vọng lâu dài chắc chắn đối với nhu cầu urani. Các dự án mở rộng các nhà máy điện hạt nhân đang được xúc tiến ở các nước trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Ukraina, Mỹ, Anh, Hàn Quốc và thậm chí cả các nước thuộc Vương quốc Ả Rập thống nhất. Các số liệu từ Hiệp hội Hạt nhân Thế giới (WNA) cho thấy 62 lò phản ứng hạt nhân đang được xây dựng trên khắp thế giới trong năm 2013, 484 lò phản ứng khác đang nằm trong kế hoạch hoặc quy hoạch xây dựng. Trung Quốc đi đầu với 26 lò phản ứng đang được xây dựng và một kế hoạch 5 năm tăng công suất lắp đặt điện hạt nhân lên từ 70 đến 80 GWe vào năm 2020; so với công suất hiện nay là 12 GWe. Vào năm 2030, Trung Quốc hy vọng đạt tới 200 GWe. Nhu cầu nhiên liệu hạt nhân toàn cầu sẽ tăng từ 166 triệu pound trong năm 2011 lên đến 226 triệu pound trong năm 2020, và 280 triệu pound U3O8 trong năm 2030. CUNG ỨNG URANI TRÊN MỨC NHU CẦU HIỆN NAY NHƯNG SẼ THIẾU TRONG NĂM 2014 Trong khi nhu cầu urani sẽ tăng mạnh trong những năm tới, nhưng vẫn chưa có gì chắc chắn thị trường sẽ đáp ứng nhu cầu như thế nào. Giá U3O8 không như mong chờ và hậu quả chính trị sau sự cố Fukushima đè nặng lên toàn bộ lĩnh vực urani, từ thăm dò đến khai thác và chế biến. Kết quả là, nhiều công ty phải hoãn các dự án mở rộng và phát triển quan trọng. Các nhà lãnh đạo công nghiệp đã từng nói giá U3O8 tại thời điểm ít ra phải từ 70 đôla đến 80 đôla/lb cho các dự án như Olympic Dam, Langer Heinrich, Kintyre và Cigar Lake thì mới có hiệu quả kinh tế. Việc trì hoãn khai thác và mở rộng các dự án lớn gắn liền với kết thúc thoả thuận làm giàu urani ở mức độ cao (HEU) năm nay có TRIỂN VỌNG URANI TRONG NĂM 2013 31Số 34 - Tháng 3/2013 THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN thể tạo ra một thị trường tương đối eo hẹp xét về trung hạn. Điều này khiến giá tại thời điểm sẽ được khôi phục lại trong đầu nửa cuối năm 2013. DỰ BÁO GIÁ TẠI THỜI ĐIỂM Các nhà đầu tư tiếp tục để ý tới Nhật Bản vì bất cứ động thái nào trong thị trường không gây tác động mạnh cho tới khi các nhà lãnh đạo mới của Nhật Bản cho thấy họ nghiêm túc khôi phục lại chương trình điện hạt nhân của họ-chương trình này tiêu thụ 10% nhu cầu urani toàn cầu. Các nhà phân tích hy vọng nhu cầu sẽ vượt khả năng cung cấp trong năm 2014. Cuối năm 2013 hoặc đầu năm 2014, có chuyên gia cho rằng giá tại thời điểm hiện nay sẽ sát với giá dài hạn (60 đôla/lb). Công ty UBS thì tin là giá sẽ quay lại 50 đôla/lb trong năm 2013 và 55 đôla/ lb trong 2014, trong khi công ty Credit Suisse đưa ra một triển vọng lớn hơn urani được giao dịch trong phạm vi 80-90 đôla/lb trong năm 2013. JP Morgan, cũng đưa ra nhận định tương tự là 78-85 đôla/lb. TỒN ĐỌNG URANI Tồn động lượng urani khai thác trong những năm qua khá lớn. Các công ty khai thác urani như là Global X Uranium ETF, Cameco, Paladin Energy, Uranium One và Denison Mines phải giảm 20% khai thác mỗi năm. Dưới đây là thông tin về một số công ty khai thác urani chủ yếu: Cameco là một trong những công ty khai thác urani và cung ứng nhiên liệu hạt nhân lớn nhất thế giới, chiếm tới 16% sản lượng U3O8 toàn cầu từ các mỏ của công ty ở Canada, Mỹ và Kazakhstan. Mới đây công ty này mua lại dự án urani Yeelirrie của tập đoàn BHP Billiton ở Tây Australia. Energy Fuels là một công ty phát triển, chế biến và khai thác vanadium và uranium với tài sản sản xuất ở bang Utah và Arizona, Mỹ và có các dự án phát triển mỏ ở bang Colorado, Utah, Arizona và Wyoming. Tài sản quan trọng là nhà máy chế biến urani White Mesa ở Mỹ. Trong tháng 6, 2012, Energy Fuels mua lại toàn bộ các hoạt động khai khoáng ở Mỹ của công ty Denison Mines. European Uranium Resources là một công ty phát triển và thăm dò, có các dự án đang trong giai đoạn phát triển và thăm dò ở Slovakia, Thuỵ Điển và Phần Lan. Mỏ Kuriskova của công ty ở Slovakia có thể trở thành một trong những mỏ khai thác urani với chi phí thấp nhất thế giới. Trong các cổ đông của European Uranium có cả AREVA, công ty công nghiệp hạt nhân hàng đầu thế giới. Laramide Resources là một công ty phát triển và thăm dò có các dự án urani hiện đại ở Australia và Mỹ. Dự án quan trọng của công ty, Westmoreland, nằm ở bang Queensland, Australia, là một trong những dự án lớn nhất do một công ty cỡ trung nắm giữ. Tài sản ở Mỹ của công ty bao gồm mỏ urani La Jara Mesa nằm trong Vành đai Khoáng sản Grants ở bang New Mexico và mỏ La Sal nằm ở vùng khai thác mỏ White Mesa ở bang Utah. Kivalliq Energy là một công ty thăm dò đang triển khai mỏ urani có hàm lượng cao ở Canada nằm ngoài Bồn chũng Athabasca của khu vực Saskatchewan. Dự án quan trọng của công ty là mỏ Angilak ở Nunavut, nằm trong vùng mỏ urani Lake Cinquante. Mỏ này có trữ lượng suy diễn NI 43-101 là 1.779.000 tấn với hàm lượng 0,69% U3O8, tổng là 27,13 triệu pound U3O8. Uranerz Energy là một công ty khai thác có diện tích đất mỏ rất lớn ở Powder River Basin của bang Wyoming. Uranerz có kế hoạch trở thành công ty khai thác thu hồi urani tại chỗ (ISR) của Mỹ trong năm 2013, đưa vào khai thác mỏ Nichols Ranch-đây là mỏ urani mới đầu tiên của bang kể từ năm 1996. Đầu năm này bắt đầu khai thác. Ur-Energy là một công ty khai thác urani ở Great Divide Basin ở bang Wyoming -dự án Lost Creek ISR. Công ty có kế hoạch đầu tư 30 đến 40 triệu đôla để đưa dự án Lost Creek đi vào sản xuất trong mùa hè năm 2013. Trần Minh Huân, theo Uranium Investing News THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 32 Số 34 - Tháng 3/2013 LÃNH ĐẠO VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM THAM DỰ CUỘC HỌP CỦA THỨ TRƯỞNG BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TIẾP PHÁI ĐOÀN HUNGARY Sáng ngày 09/01/2013, tại Hà Nội, Lãnh đạo Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Viện NLNTVN) cùng với Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Viện NLNTVN đã tham dự buổi tiếp và làm việc của Thứ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ Lê Đình Tiến với phái đoàn Chính phủ Hungary do ngài Quốc vụ Khanh Bộ Phát triển Quốc gia Hungary phụ trách về năng lượng và môi trường Kovács Pál làm trưởng đoàn. Tại buổi tiếp, Thứ trưởng Lê Đình Tiến đã thông báo tình hình triển khai dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận và khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam đối với việc đảm bảo nguồn an ninh năng lượng và tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước. Với tư cách là một quốc gia lần đầu tiên phát triển điện hạt nhân, Việt Nam coi trọng và đánh giá cao sự hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế có kinh nghiệm trong phát triển điện hạt nhân. Việt Nam rất coi trọng việc xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và đặc biệt là vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển điện hạt nhân. Thứ trưởng Lê Đình Tiến bày tỏ mong muốn Hungary chia sẻ những kinh nghiệm và tăng cường sự hợp tác song phương giữa cơ quan pháp quy của Việt Nam và cơ quan quản lý của Hungary trong lĩnh vực an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân. Ngài Quốc vụ Khanh Kovács Pál cho biết, năm 2011 Chính phủ và Quốc hội Hungary đã thông qua Chiến lược phát triển năng lượng đến năm 2030 và hướng đến năm 2050. Chuyến thăm Việt Nam của đoàn lần này nhằm mục đích trao đổi kinh nghiệm trong việc vận động nhân dân ủng hộ xây dựng nhà máy điện nguyên tử. Sắp tới, Hungary sẽ sớm xúc tiến các bước cần thiết để giúp đỡ, chia sẻ những kinh nghiệm trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử và xây dựng mối quan hệ hợp tác lâu dài với Việt Nam. Phạm Khắc Tuyên VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM TIẾP VÀ LÀM VIỆC VỚI ĐOÀN CHUYÊN GIA CƠ QUAN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ QUỐC TẾ (IAEA) Trong các ngày từ 14-18/01/2013, Đoàn chuyên gia Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) đã tới thăm và làm việc với Viện NLNTVN về việc xây dựng kế hoạch hoạt động chiến lược cho Viện NLNTVN trong thời gian sắp tới. Thành phần Đoàn IAEA gồm có Ông Mokdad Maksoudi, Ông Pie Johannes Bredell, Ông Wessel Van Zyl de Villiers và Ông Charles Sante Bernardo Piani – là những cố vấn giàu kinh nghiệm của IAEA. Toàn cảnh buổi tiếp  TIN TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ 33Số 34 - Tháng 3/2013 THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN Tiếp đoàn chuyên gia IAEA có các ông Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện NLNTVN; cùng với sự có mặt của Lãnh đạo các Ban, Viện và Trung tâm trực thuộc Viện NLNTVN. Trong buổi làm việc ngày 14/01/2013, Ông Trần Chí Thành - Viện trưởng Viện NLNTVN và Ông Trần Ngọc Toàn - Trưởng ban Hợp tác quốc tế, Viện NLNTVN đã có bài giới thiệu tổng quan về tình hình và kết quả hoạt động của Viện cũng như những cơ hội và thách thức đối với Viện trong thời gian tới. Về phía IAEA, Ông M. Maksoudi và Ông Van Zyl de Villiers đã giới thiệu sơ lược về việc lập kế hoạch hoạt động chiến lược, cách thức tiếp cận và quy trình thiết lập kế hoạch hoạt động chiến lược của một viện nghiên cứu. Trong buổi làm việc ngày 15/01/2013, Viện trưởng các viện nghiên cứu và giám đốc các trung tâm trực thuộc Viện NLNTVN đã có bài phát biểu tổng quan về nhiệm vụ của đơn vị, kết quả đạt được trong thời gian qua, mục tiêu phát triển chiến lược trong thời gian tới cũng như mong muốn nhận được sự giúp đỡ của các chuyên gia IAEA. Sáng ngày 16/01/2013, đoàn chuyên gia IAEA đã trình bày và cùng thảo luận với Viện NLNTVN về những yếu tố cốt lõi cần quan tâm trong quá trình xây dựng và thực thi kế hoạch hoạt động chiến lược. Chiều ngày 16/01/2013 và ngày 17/01/2012, đoàn chuyên gia IAEA đã có buổi thăm quan và làm việc với lãnh đạo Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt nhằm thảo luận và tư vấn cho Viện Nghiên cứu hạt nhân những điều chỉnh phù hợp với mục tiêu chiến lược của Viện NLNTVN. Ngày 18/01/2013, tại hội trường Viện NLNTVN, đoàn chuyên gia IAEA và lãnh đạo Viện NLNTVN đã có buổi thảo luận về lộ trình thực hiện kế hoạch hoạt động chiến lược của Viện NLNTVN với sự giúp đỡ của IAEA cũng như tổng kết những kết quả đã đạt được trong chuyến thăm và làm viêc của phái đoàn IAEA. Viện trưởng Trần Chí Thành đã gửi lời cảm ơn sâu sắc tới sự quan tâm giúp đỡ của IAEA dành cho Viện NLNTVN nói riêng và sự nghiệp phát triển hạt nhân vì mục đích hòa bình của Việt Nam nói chung, và hi vọng Viện NLNTVN sẽ nhận được sự giúp đỡ hơn nữa của IAEA trong thời gian sắp tới. Đoàn Thị Thu Hương, Ban Hợp tác quốc tế HỘI THẢO LÒ PHẢN ỨNG ATMEA1 Ngày 28/02/2013, Viện NLNTVN đã cùng phối hợp với công ty ATMEA tổ chức hội thảo “Lò phản ứng ATMEA1: đặc tính thiết kế, an toàn và chiến lược của ATMEA sau tai nạn Fukushima”. Tham dự hội thảo, về phía Viện NLNTVN có ông Trần Chí Thành, Viện Trưởng Viện NLNTVN; ông Cao Đình Thanh, Phó Viện Trưởng Viện NLNTVN; ông Bùi Đăng Hạnh, Phó Trưởng ban Hợp tác quốc tế. Về phía công ty ATMEA có ông Philippe Namy, Chủ tịch và Giám đốc điều hành ATMEA; ông Satoshi  Utsumi, Phó Giám đốc điều hành ATMEA, cùng các chuyên gia về lò phản ứng ATMEA1 của công ty. Ngoài ra còn có các chuyên gia và đại diện các cơ quan, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử của Việt Nam như Cục Năng lượng nguyên tử Việt Nam, Cục An toàn bức xạ và Hạt nhân, Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Ban quản lý dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, Trường Đại học Điện lực, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.  Ảnh chụp trong ngày làm việc đầu tiên của đoàn chuyên gia IAEA THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 34 Số 34 - Tháng 3/2013 Tại buổi hội thảo, các đại biểu đã được nghe các chuyên gia trình bày về sự thành lập liên minh ATMEA, kinh nghiệm cũng như những lĩnh vực hoạt động của công ty ATMEA, những đặc tính chính của lò phản ứng ATMEA1 và chiến lược của ATMEA sau tai nạn Fukushima. Nội dung chính và cũng là phần thảo luận sôi nổi nhất của hội thảo lần này được các chuyên gia tập trung đề cập đến tính năng an toàn, khả năng phòng chống đối với những mối hiểm họa và sự cố nặng của lò phản ứng ATMEA1. Liên doanh ATMEA ra đời nhằm mục tiêu phát triển và tung ra thị trường lò phản ứng tiên tiến ATMEA 1. Công ty hướng đến mục tiêu dẫn đầu thế giới về thị trường điện  hạt nhân quy mô vừa. Lò phản ứng ATMEA1 thuộc loại lò phản ứng nước áp lực quy mô vừa thế hệ III+, được tích hợp những công nghệ đã qua thử nghiệm, có đặc tính an toàn cao cùng với hiệu quả kinh tế và hiệu suất hoạt động lớn. Hội thảo về lò phản ứng ATMEA1 lần này nằm trong loạt hội thảo do Viện NLNTVN phối hợp với các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực điện hạt nhân nhằm đánh giá tổng quan về các loại lò phản ứng hạt nhân tiên tiến, góp phần vào việc xem xét và lựa chọn công nghệ cho nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2. Phạm Khắc Tuyên HỘI THẢO “BÀI HỌC TAI NẠN ĐIỆN HẠT NHÂN FUKUSHIMA” Nhân kỷ niệm 2 năm ngày xảy ra tai nạn tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi, 11/03/2011 - 11/03/2013, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Viện NLNTVN) đã tổ chức Hội thảo “Bài học tai nạn điện hạt nhân Fukushima” do GS. Phạm Duy Hiển Trình bày nhằm mục đích thảo luận và rút ra những bài học từ tai nạn Fukushima để từ đó giúp các nhà Lãnh đạo xây dựng những kế hoạch mang tính chiến lược nhằm thúc đẩy sự phát triển chương trình điện hạt nhân ở Việt Nam. Tham dự buổi hội thảo có GS. TSKH Trần Hữu Phát, Chủ tịch Hội đồng Khoa học công nghệ và đào tạo Viện NLNTVN; TS. Trần Chí Thành, Viện Trưởng Viện NLNTVN; PGS. TS. Vương Hữu Tấn, Cục Trưởng Cục an toàn bức xạ và hạt nhân, TS. Hoàng Anh Tuấn, Phó Cục Trưởng phụ trách, Cục Năng lượng nguyên tử; Ông Lê Văn Lực, Vụ Trưởng Vụ nhiệt điện và điện hạt nhân-Bộ Công Thương; TS. Võ Văn Thuận, Văn Phòng Ban chỉ đạo dự án điện hạt nhân Ninh Thuận; cùng các chuyên gia và đại diện đến từ các đơn vị trực thuộc Viện NLNTVN, các cơ quan có liên quan đến lĩnh vực năng lượng nguyên tử.     Tại hội thảo, GS. Phạm Duy Hiển đã điểm lại 3 tai nạn điện hạt nhân lớn trên thế giới (Three Mile Island, Chernobyl, Fukushima), đồng thời phân tích nhiều khía cạnh liên quan đến vụ tai nạn, từ Chuyên gia của ATMEA trình bày tại hội thảo GS. Phạm Duy Hiển trình bày tại hội thảo 35Số 34 - Tháng 3/2013 THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN khâu tổ chức, điều hành, cho đến các vấn đề quản lý, ra quyết định và giải quyết hậu quả sau tai nạn. Thông qua bài trình bày của GS. Phạm Duy Hiển, các chuyên gia cũng đã đưa ra nhiều ý kiến đóng góp có giá trị về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điện hạt nhân, vấn đề thực thi và giám sát pháp luật, vấn đề đào tạo nhân lực và sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan đến chương trình phát triển điện hạt  nhân Phát biểu tại buổi hội thảo, GS. TSKH Trần Hữu Phát cho rằng một trong những vấn đề đáng cảnh báo hiện nay là các văn bản quy phạm pháp luật về điện hạt nhân. Mặc dù Luật năng nguyên tử và các văn bản dưới luật đã được thông qua hoặc đang sửa đổi. Tuy nhiên, GS. Phát đặt câu hỏi “liệu những văn bản đã thông qua đã đảm bảo chưa?”. GS. Phát cũng đã nhấn mạnh đến các vấn đề về tổ chức các cơ quan thực thi và giám sát luật. GS. Phát nói: “từ sự cố Fukushima, chúng ta cần phải nghiêm túc xây dựng lại toàn bộ hệ thống từ cấp cao đến cấp thấp.” Cũng đồng quan điểm với GS. TSKH Trần Hữu Phát, Viện Trưởng Trần Chí Thành cho rằng vấn đề đào tạo nguồn nhân lực là ưu tiên hàng đầu hiện nay. Viện trưởng cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải có sự phối hợp giữa các đơn vị để năng cao hiệu quả đối thoại với các tổ chức quốc tế và đảm bảo lợi ích quốc gia. TS. Lê Văn Hồng góp ý: “Lãnh đạo các cơ quan về điện hạt nhân nên đề xuất một nhiệm vụ lớn và thu hút nhiều cơ quan tham gia, đồng thời cần nhìn sự cố trên nhiều góc độ để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho mình.” Hội thảo đã diễn ra trong không khí cầu thị và mang đến một bức tranh khá đầy đủ về tai nạn Fukushima. Đây cũng là dịp để các chuyên gia trong lĩnh vực hạt nhân thảo luận và đóng góp ý kiến về những bài học cho Việt Nam, rút ra từ các tai nạn điện hạt nhân, đặc biệt là tai nạn Fukushima, nhằm góp phần giải quyết các vấn đề ‘nổi cộm’ và thúc đẩy quá trình phát triển điện hạt nhân của Việt Nam. Phạm Khắc Tuyên ĐOÀN CỰU CHIẾN BINH TRUNG ĐOÀN 66 TẠI LÂM ĐỒNG ĐẾN THĂM VÀ TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU HẠT NHÂN Sáng 20/3/2013, Đoàn đại biểu Cựu Chiến binh Trung đoàn 66 – Đơn vị 3 lần được tặng Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang, do Thiếu tướng Lê Bảy – Nguyên Chính ủy Học viện lục quân Đà Lạt dẫn đầu, đã đến thăm Viện Nghiên cứu hạt nhân. Tiếp đoàn có PGS.TS. Nguyễn Nhị Điền - Viện trưởng, các đồng chí đại diện cho Đảng ủy, lãnh đạo Hội Cựu chiến binh và Phòng Hành chính - Tổ chức Viện Nghiên cứu hạt nhân (NCHN). Tại buổi tiếp, Viện trưởng Viện NCHN đã giới thiệu khái quát về các hoạt động và các thành tựu nổi bật trong nghiên cứu khoa học, triển khai tiến bộ kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của Viện, đồng thời cũng thông tin với Đoàn về những nét chủ yếu của Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận và Dự án Trung tâm Khoa học & Công nghệ hạt nhân mới. Đoàn cũng đã thăm quan Lò phản ứng và các dây chuyền sản xuất đồng vị phóng xạ phục vụ y tế. Đoàn bày tỏ đánh giá cao sự nỗ lực và những thành quả mà Viện đã đạt được trong gần 30 năm qua và chúc cho Viện tiếp tục phát triển bền vững. Lê Thị Phú Vân, Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt Đoàn Cựu Chiến binh Trung đoàn 66 tại Lâ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftong_ket_cac_mat_hoat_dong_cua_vien_nang_luong_nguyen_tu_vie.pdf