Từ lâu y giới đã biết đến tầm quan trọng của tần số tim đối với cán 
cân cung-cầu oxy của cơ tim. Tim càng chậm thì công của tim càng thấp, do 
đó tiêu thụ oxy bởi cơ tim càng ít. Mặt khác, tim càng chậm thì thời gian 
tưới máu tâm trương càng dài. Do đó tần số tim thấp có lợi đối với người 
bệnh mạch vành 1.
Ở những người sống sót sau nhồi máu cơ tim, mối liên quan giữa tần 
số tim và tử vong tim mạch cũng như tử vong do mọi nguyên nhân đã được 
chứng minh bởi nhiều nghiên cứu cả trong kỷ nguyên trước thuốc tiêu huyết 
khối lẫn trong kỷ nguyên thuốc tiêu huyết khối. Trong thử nghiệm lâm sàng 
SPRINT (Secondary Prevention Reinfarction Israeli Nifedipine Trial) thực 
hiện trên 1044 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp, tần số tim lúc nhập viện là 
một yếu tố dự báo độc lập tử vong trong bệnh viện và tử vong sau 1 năm : 
Ứng với mỗi mức tăng 15 nhát/phút nguy cơ tử vong sau 1 năm tăng 1,36 
lần 2. Trong thử nghiệm lâm sàng GUSTO-I (Global Utilization of 
Streptokinase and t-PA for Occluded Coronary Arteries-I) tần số tim lúc 
nhập viện là một yếu tố dự báo tử vong sau 30 ngày 3. Kết quả của các 
nghiên cứu này (và nhiều nghiên cứu khác) giải thích vì sao hiện nay các 
thang điểm dùng để đánh giá dự hậu của bệnh nhân hội chứng mạch cấp như 
GRACE (Global Registry of Acute Coronary Events) hay TIMI 
(Thrombolysis in Myocardial Infarction) đều có bao gồm một thành phần là 
tần số tim lúc nhập viện 4,5
              
                                            
                                
            
 
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Ừc chế chọn lọc tần số tim –Điều trị bệnh mạch vành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ừc chế chọn lọc tần số tim – Điều 
trị bệnh mạch vành 
ẢNH HƯỞNG CỦA TẦN SỐ TIM TRÊN NGUY CƠ TIM 
MẠCH 
Từ lâu y giới đã biết đến tầm quan trọng của tần số tim đối với cán 
cân cung-cầu oxy của cơ tim. Tim càng chậm thì công của tim càng thấp, do 
đó tiêu thụ oxy bởi cơ tim càng ít. Mặt khác, tim càng chậm thì thời gian 
tưới máu tâm trương càng dài. Do đó tần số tim thấp có lợi đối với người 
bệnh mạch vành 1. 
Ở những người sống sót sau nhồi máu cơ tim, mối liên quan giữa tần 
số tim và tử vong tim mạch cũng như tử vong do mọi nguyên nhân đã được 
chứng minh bởi nhiều nghiên cứu cả trong kỷ nguyên trước thuốc tiêu huyết 
khối lẫn trong kỷ nguyên thuốc tiêu huyết khối. Trong thử nghiệm lâm sàng 
SPRINT (Secondary Prevention Reinfarction Israeli Nifedipine Trial) thực 
hiện trên 1044 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp, tần số tim lúc nhập viện là 
một yếu tố dự báo độc lập tử vong trong bệnh viện và tử vong sau 1 năm : 
Ứng với mỗi mức tăng 15 nhát/phút nguy cơ tử vong sau 1 năm tăng 1,36 
lần 2. Trong thử nghiệm lâm sàng GUSTO-I (Global Utilization of 
Streptokinase and t-PA for Occluded Coronary Arteries-I) tần số tim lúc 
nhập viện là một yếu tố dự báo tử vong sau 30 ngày 3. Kết quả của các 
nghiên cứu này (và nhiều nghiên cứu khác) giải thích vì sao hiện nay các 
thang điểm dùng để đánh giá dự hậu của bệnh nhân hội chứng mạch cấp như 
GRACE (Global Registry of Acute Coronary Events) hay TIMI 
(Thrombolysis in Myocardial Infarction) đều có bao gồm một thành phần là 
tần số tim lúc nhập viện 4,5. 
Đối với người bệnh mạch vành mạn ổn định hiện cũng đã có nhiều 
chứng cứ về ảnh hưởng bất lợi của tim nhanh. Trong nghiên cứu ASIS 
(Angina and Silent Ischemia Study), 50 người bệnh mạch vành mạn ổn định 
được theo dõi bằng Holter ECG 48 giờ. Các tác giả ASIS ghi nhận tần suất 
các cơn thiếu máu cục bộ tim trên Holter ECG có liên quan chặt chẽ với tần 
số tim lúc nghỉ của bệnh nhân: Tần suất các cơn này là 8,7% ở những người 
có tần số tim lúc nghỉ < 60/phút và 18,5% (tức là hơn gấp 2 lần) ở những 
người có tần số tim lúc nghỉ ≥ 90/phút 6. Các tác giả ASIS còn ghi nhận có 
81% các cơn thiếu máu cục bộ tim xuất hiện sau khi có hiện tượng tần số tim 
tăng hơn 5 nhát/phút 6. Nghiên cứu bằng Holter ECG 48 giờ ở người bệnh 
mạch vành mạn ổn định của Panza và cộng sự cũng cho thấy có 89% các 
cơn thiếu máu cục bộ tim xuất hiện sau khi tần số tim tăng hơn 10 nhát/phút 
7. Chứng cứ thuyết phục nhất về ảnh hưởng bất lợi của tim nhanh đối với dự 
hậu của người bệnh mạch vành mạn ổn định được rút ra từ nghiên cứu 
CASS (Coronary Artery Surgery Study). Trong CASS gần 25.000 người 
bệnh mạch vành được theo dõi với thời gian trung vị là 15 năm. Các tác giả 
CASS ghi nhận tim nhanh là một yếu tố dự báo độc lập tử vong chung và tử 
vong tim mạch 8. So với những người có tần số tim lúc nghỉ £ 62/phút, 
những người có tần số tim lúc nghỉ ≥ 83/phút có nguy cơ tử vong chung cao 
hơn 1,32 lần (p < 0,0001) và nguy cơ tử vong do nguyên nhân tim mạch cao 
hơn 1,31 lần (p < 0,0001) 8. Trên hình 1 là các đường biểu diễn tỉ lệ sống sót 
theo thời gian của 5 nhóm bệnh nhân tham gia nghiên cứu CASS có tần số 
tim lúc nghỉ £ 62/phút, trong khoảng 63-70/phút, 71-76/phút, 77-82/phút và 
≥ 83/phút (hình 1). 
 Hình 1: Tỉ lệ sống sót theo thời gian của bệnh nhân tham gia CASS 
có tần số tim lúc nghỉ ≤ 62/phút (đường trên cùng), 63-70 lần/phút (đường 
thứ 2 từ trên xuống), 71-76 lần/phút (đường thứ 3 từ trên xuống), 77-82 
lần/phút (đường thứ 4 từ trên xuống) và ≥ 83 lần/phút (đường dưới cùng). 
IVABRADINE, THUỐC ỨC CHẾ CHỌN LỌC TẦN SỐ TIM 
Do nhận thức được tầm quan trọng của tần số tim đối với nguy cơ tim 
mạch, từ lâu y giới đã dùng những thuốc gây giảm tần số tim để điều trị 
người bệnh mạch vành. Kết quả từ nhiều nghiên cứu lâm sàng cho thấy các 
thuốc nhóm chẹn bêta và một số thuốc nhóm chẹn canxi (verapamil, 
diltiazem) có tác dụng giảm tần số tim và rất hữu hiệu trong việc kiểm soát 
triệu chứng đau thắt ngực và ngăn ngừa các cơn thiếu máu cục bộ tim. Riêng 
một số thuốc nhóm chẹn bêta như metoprolol, bisoprolol và carvedilol còn 
giảm tử vong và biến cố tim mạch nặng ở những người bệnh mạch vành có 
tiền sử nhồi máu cơ tim hoặc có suy tim. Tuy nhiên các thuốc nhóm chẹn 
bêta, verapamil và diltiazem không chỉ gây giảm tần số tim mà còn có nhiều 
tác dụng khác trên hệ tim mạch như ức chế co bóp cơ tim và gây dãn mạch 
(diltiazem và verapamil). Các nhà nghiên cứu không thể xác định riêng tác 
dụng giảm tần số tim của các thuốc này góp phần như thế nào vào lợi ích 
được quan sát thấy trên lâm sàng. 
Việc khám phá kênh If bởi DiFrancesco và cộng sự vào năm 1979 
đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quá trình nghiên cứu ảnh hưởng của 
việc ức chế chọn lọc tần số tim đối với người bệnh mạch vành. Chữ "f" là 
viết tắt của "funny" (kỳ lạ) vì khi khám phá ra kênh ion này, các nhà nghiên 
cứu nhận thấy nó có những đặc điểm rất khác với các kênh ion đã được biết 
trước đó 9. Kênh If hiện diện trên các tế bào tạo nhịp của nút xoang, là một 
kênh hỗn hợp cho phép cả Na+ và K+ đi vào tế bào. Điểm khác biệt của 
kênh If so với các kênh ion khác là kênh này được hoạt hóa bởi sự tăng phân 
cực (chứ không phải bởi sự khử cực như các kênh ion khác). Kênh If là một 
trong những kênh ion quan trọng nhất điều hòa hoạt động tạo nhịp của nút 
xoang 9. 
Việc tìm ra phân tử ivabradine bởi Viện nghiên cứu dược phẩm 
Servier đánh dấu cột mốc quan trọng thứ hai trong quá trình tìm hiểu lợi ích 
của việc ức chế chọn lọc tần số tim đối với người bệnh mạch vành. 
Ivabradine (tên thương mại là Procoralan) chẹn một cách chọn lọc kênh If, 
do đó thuốc có tác dụng làm chậm nhịp xoang 10. Khác với các thuốc chẹn 
bêta, verapamil và diltiazem, ivabradine hoàn toàn không ức chế co bóp cơ 
tim. Thuốc không gây co thắt mạch vành như một số thuốc chẹn bêta không 
chọn lọc và cũng không có ảnh hưởng trên huyết áp 11. Các nghiên cứu so 
sánh ivabradine với thuốc chẹn bêta propranolol cho thấy ivabradine bảo tồn 
rất tốt đáp ứng tăng lưu lượng mạch vành và tăng cung lượng tim khi gắng 
sức 11,12. Khi so sánh ivabradine với thuốc chẹn bêta atenolol, Colin và 
cộng sự nhận thấy mặc dù 2 thuốc làm chậm nhịp tim ngang nhau, 
ivabradine kéo dài thời gian tâm trương nhiều hơn atenolol nên có ảnh 
hưởng thuận lợi hơn trên tưới máu cơ tim 13. 
Nghiên cứu lâm sàng lớn đầu tiên đánh giá lợi ích của ivabradine đối 
với người bệnh mạch vành mạn ổn định được công bố vào năm 2003. Đối 
tượng nghiên cứu là 360 bệnh nhân có tiền sử đau thắt ngực ổn định ≥ 3 
tháng, có hẹp/tắc động mạch vành được chứng minh bằng chụp mạch vành 
cản quang hoặc có tiền sử nhồi máu cơ tim ≥ 3 tháng trước đó và có điện tim 
gắng sức dương tính (vừa có đau thắt ngực vừa có ST chênh xuống ≥ 1 mm 
so với lúc nghỉ) 14. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên cho dùng ivabradine 
với 3 liều khác nhau (2,5 mg x 2/ngày, 5 mg x 2/ngày và 10 mg x 2/ngày) 
hoặc placebo trong 2 tuần (giai đoạn 1), sau đó tất cả bệnh nhân được cho 
dùng ivabradine 10 mg x 2/ngày trong 2 tháng (giai đoạn 2). Tiêu chí đánh 
giá chính của nghiên cứu là thời gian đến khi ST chênh xuống 1 mm trên 
điện tim và thời gian đến khi xuất hiện đau thắt ngực khi làm nghiệm pháp 
gắng sức trên xe đạp. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong giai đoạn 1 cả thời 
gian đến khi ST chênh xuống 1 mm lẫn thời gian đến khi xuất hiện đau thắt 
ngực của bệnh nhân dùng ivabradine đều kéo dài có ý nghĩa so với bệnh 
nhân dùng placebo. Mức độ kéo dài các thời gian này tùy thuộc liều dùng 
ivabradine, liều càng cao các thời gian này càng kéo dài. Trong giai đoạn 2 
thời gian đến khi ST chênh xuống 1 mm và thời gian đến khi xuất hiện đau 
thắt ngực của 3 nhóm bệnh nhân dùng placebo, ivabradine 2,5 mg x 2/ngày 
và 5 mg x 2/ngày đều tăng dần và đạt mức gần bằng của nhóm dùng 
ivabradine 10 mg x 2/ngày vào cuối nghiên cứu (hình 2). Các tác giả còn ghi 
nhận tần suất các cơn đau thắt ngực giảm từ 4,14 ± 5,59/tuần vào lúc bắt đầu 
nghiên cứu xuống còn 0,95 ± 2,24/tuần vào lúc kết thúc giai đoạn 2 (p < 
0,001). 
Hình 2: Thay đổi thời gian đến khi ST chênh xuống 1 mm khi làm 
nghiệm pháp gắng sức. Trong giai đoạn 1 bệnh nhân được cho dùng 
ivabradine 10 mg x 2/ngày (đường trên cùng), ivabradine 5 mg x 2/ngày 
(đường thứ 2 từ trên xuống), ivabradine 2,5 mg x 2/ngày (đường thứ 3 từ 
trên xuống) hoặc placebo (đường dưới cùng). Trong giai đoạn 2 tất cả bệnh 
nhân được cho dùng ivabradine 10 mg x 2/ngày. 
Trong nghiên cứu INITIATIVE (International Trial of the Antianginal 
Effects of Ivabradine) hiệu quả chống thiếu máu cục bộ tim của ivabradine 
được so sánh với thuốc chẹn bêta atenolol. Đối tượng nghiên cứu là 939 
người bệnh mạch vành có tiền sử đau thắt ngực ổn định ≥ 3 tháng và 2 điện 
tim gắng sức dương tính (xuất hiện đau thắt ngực từ vừa đến nặng và ST 
chênh xuống ≥ 1 mm khi làm nghiệm pháp gắng sức) 15. Bệnh nhân được 
phân ngẫu nhiên vào 1 trong 3 nhóm. Trong 4 tuần đầu nhóm 1 và nhóm 2 
được cho dùng ivabradine 5 mg x 2/ngày và nhóm 3 được cho dùng atenolol 
50 mg/ngày. Trong 12 tuần kế tiếp nhóm 1 (n = 315) được cho dùng 
ivabradine 7,5 mg x 2/ngày, nhóm 2 (n = 317) được cho dùng ivabradine 10 
mg x 2/ngày và nhóm 3 (n = 307) được cho dùng atenolol 100 mg/ngày. Lúc 
bắt đầu nghiên cứu, sau 4 tuần và sau 16 tuần bệnh nhân được cho làm 
nghiệm pháp gắng sức trên thảm lăn theo qui trình Bruce cải biên. Tiêu chí 
đánh giá chính là thay đổi tổng thời gian gắng sức (sau 16 tuần so với lúc bắt 
đầu nghiên cứu). 
Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 16 tuần tổng thời gian gắng sức trên 
thảm lăn của nhóm 1 tăng 86,8 ± 129,0 giây, của nhóm 2 tăng 91,7 ± 118,8 
giây và của nhóm 3 tăng 78,8 ± 133,4 giây (phép kiểm về sự không thua 
kém, non-inferiority, cho trị số p < 0,001). Các tác giả INITIATIVE còn ghi 
nhận thời gian đến khi xuất hiện đau thắt ngực và thời gian đến khi ST 
chênh xuống 1 mm khi làm nghiệm pháp gắng sức của 3 nhóm tăng tương 
đương nhau. Số cơn đau thắt ngực mỗi tuần cũng như số lần phải ngậm 
nitroglycerin mỗi tuần để cắt cơn đau ngực của 3 nhóm giảm tương đương 
nhau. 
Kết quả khả quan của các nghiên cứu lâm sàng với ivabradine đã dẫn 
đến việc Hội Tim mạch Châu Âu đưa thuốc này vào hướng dẫn chính thức 
của Hội về điều trị đau thắt ngực ổn định năm 2006 như một thuốc dùng để 
kiểm soát triệu chứng đau thắt ngực và chống thiếu máu cục bộ tim 16. 
NGHIÊN CỨU BEAUTIFUL 
Các thuốc điều trị bệnh mạch vành thường được chia thành 2 nhóm. 
Nhóm thứ nhất là nhóm các thuốc cải thiện dự hậu của bệnh nhân (giảm tử 
vong và giảm các biến cố tim mạch nặng như nhồi máu cơ tim, đột quị, tái 
tưới máu mạch vành, nhập viện vì suy tim tăng nặng v.v...) gồm thuốc chẹn 
bêta (đối với người có suy tim hoặc tiền sử nhồi máu cơ tim), ức chế men 
chuyển, statin và kháng tiểu cầu. Nhóm thứ hai là nhóm các thuốc dùng để 
kiểm soát triệu chứng đau thắt ngực và chống thiếu máu cục bộ tim 16. Sau 
hàng loạt thử nghiệm lâm sàng với kết quả khả quan, các nhà nghiên cứu 
không còn nghi ngờ gì về hiệu quả kiểm soát đau thắt ngực và thiếu máu cục 
bộ tim của ivabradine. Điều các nhà nghiên cứu muốn làm sáng tỏ là 
ivabradine có cải thiện dự hậu của bệnh nhân hay không, tức là liệu có thể 
xếp thuốc này vào nhóm thứ nhất hay không. Nghiên cứu BEAUTIFUL 
(morBidity-mortality EvAlUaTion of the If inhibitor ivabradine in patients 
with coronary disease and left-ventricULar dysfunction) được thiết kế nhằm 
trả lời cho câu hỏi này. 
Các cơ sở để thực hiện nghiên cứu BEAUTIFUL như sau : (1) Ở 
những người bệnh mạch vành tần số tim cao là một yếu tố tiên lượng xấu, 
tim càng nhanh nguy cơ tử vong và biến chứng tim mạch nặng càng cao ; (2) 
Nguy cơ tử vong và biến chứng tim mạch nặng đặc biệt cao ở những người 
bệnh mạch vành có rối loạn chức năng thất trái ; (3) Ivabradine là một thuốc 
làm chậm nhịp xoang, có hiệu quả cao trong kiểm soát triệu chứng đau thắt 
ngực và thiếu máu cục bộ tim. Ivabradine không có ảnh hưởng trên co bóp 
cơ tim, tái cực thất và huyết áp, do đó thuốc cung cấp một cơ hội rất tốt cho 
việc đánh giá ảnh hưởng của việc ức chế chọn lọc tần số tim đối với dự hậu 
của người bệnh mạch vành 17. 
BEAUTIFUL là một thử nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên, mù 
đôi, đa trung tâm (thực hiện tại 781 trung tâm thuộc 33 quốc gia). Bệnh nhân 
được chọn vào nghiên cứu là những người thuộc cả 2 giới nam và nữ, tuổi từ 
55 trở lên (≥ 18 tuổi nếu có bệnh đái tháo đường), có bệnh mạch vành (có 
tiền sử nhồi máu cơ tim, can thiệp mạch vành qua da hoặc mổ bắc cầu mạch 
vành, hoặc có hẹp ít nhất 50% các động mạch vành lớn trên phim chụp mạch 
vành cản quang), có phân suất tống máu thất trái dưới 40% và kích thước 
cuối tâm trương thất trái đo bằng siêu âm tim ở mặt cắt trục ngang lớn hơn 
56 mm, có nhịp xoang và tần số tim lúc nghỉ ≥ 60/phút. Các triệu chứng đau 
thắt ngực và suy tim phải ổn định ít nhất 3 tháng và bệnh nhân phải được 
điều trị bằng các thuốc tim mạch phù hợp với liều ổn định ít nhất 1 tháng. 
Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên cho dùng placebo hoặc ivabradine 
(liều khởi đầu 5 mg x 2/ngày, tăng lên 7,5 mg x 2/ngày sau 2 tuần nếu tần số 
tim vẫn ≥ 60/phút). Trong suốt thời gian nghiên cứu tất cả bệnh nhân được 
tiếp tục cho dùng các thuốc tim mạch cần thiết như chẹn bêta, ức chế men 
chuyển, chẹn thụ thể angiotensin, thuốc hạ lipid máu và aspirin hoặc 
clopidogrel. 
Tiêu chí đánh giá chính là phối hợp các biến cố chết do nguyên nhân 
tim mạch, nhập viện vì nhồi máu cơ tim cấp và nhập viện vì suy tim mới 
xuất hiện hoặc suy tim tăng nặng. Các tiêu chí đánh giá phụ gồm : (1) tử 
vong do mọi nguyên nhân ; (2) tử vong do tim ; (3) tử vong tim mạch hoặc 
nhập viện vì suy tim ; (4) nhập viện vì nhồi máu cơ tim cấp hoặc đau thắt 
ngực không ổn định ; (5) tái tưới máu mạch vành ; (6) tử vong tim mạch ; 
(7) nhập viện vì suy tim ; (8) nhập viện vì nhồi máu cơ tim. Kết quả được 
phân tích riêng cho 2 đối tượng bệnh nhân (được xác định ngay từ đầu) là 
những người có tần số tim ≥ 70/phút và những người có tần số tim < 
70/phút. 
Tổng cộng có 10.917 bệnh nhân được tuyển vào nghiên cứu. Bệnh 
nhân có tuổi trung bình là 65,2 ± 8,5, tỉ lệ nam là 83,2%. 88% có tiền sử 
nhồi máu cơ tim, 52% đã từng được can thiệp mạch vành qua da hoặc mổ 
bắc cầu mạch vành và 37% có đái tháo đường. Tần số tim ban đầu là 71,6 ± 
9,9/phút, huyết áp tâm thu ban đầu là 128,0 ± 15,6 mm Hg và huyết áp tâm 
trương ban đầu là 77,5 ± 9,3 mm Hg. Tỉ lệ NYHA I là 14%, NYHA II là 
59% và NYHA III là 27%. Bệnh nhân tham gia BEAUTIFUL được điều trị 
rất tích cực, trên bảng 1 là tỉ lệ dùng các thuốc tim mạch ở 2 nhóm. 
Bảng 1: Tỉ lệ dùng các thuốc tim mạch ở 2 nhóm trong 
BEAUTIFUL. 
 Nhóm 
ivabradine 
(n = 5479) 
Nhóm 
placebo 
(n = 5438) 
Aspirin hoặc thuốc chống 94% 94% 
huyết khối 
Statin 74% 74% 
Ức chế men chuyển và/hoặc 
chẹn thụ thể angiotensin 
90% 90% 
Chẹn bêta 87% 87% 
Nitrate 44% 43% 
Lợi tiểu (trừ kháng 
aldosterone) 
59% 59% 
Kháng aldosterone 27% 27% 
Thời gian theo dõi trung vị là 19 tháng (dài nhất : 35 tháng). Có 28% 
bệnh nhân nhóm ivabradine và 16% bệnh nhân nhóm placebo ngưng thuốc 
nghiên cứu. Tỉ lệ ngưng thuốc ở nhóm ivabradine cao hơn so với nhóm 
placebo chủ yếu là do nhịp chậm (13% bệnh nhân nhóm ivabradine và 2% 
bệnh nhân nhóm placebo bị nhịp chậm). Tuy nhiên trong số bệnh nhân phải 
ngưng ivabradine vì nhịp chậm chỉ có 21% có triệu chứng. Các tác dụng phụ 
khác đều rất hiếm gặp ở cả 2 nhóm. 
Kết quả BEAUTIFUL cho thấy có 844 (15,4%) bệnh nhân nhóm 
ivabradine và 832 (15,3%) bệnh nhân nhóm placebo bị một biến cố thuộc 
tiêu chí đánh giá chính (khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p = 0,94). Tần 
suất các biến cố thuộc tiêu chí đánh giá phụ của 2 nhóm cũng khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê. 
Tuy nhiên khi xét riêng những đối tượng bệnh nhân có tần số tim ban 
đầu ≥ 70/phút, các tác giả BEAUTIFUL ghi nhận tần suất các biến cố mạch 
vành như nhập viện vì nhồi máu cơ tim, nhập viện vì nhồi máu cơ tim cấp 
hoặc đau thắt ngực không ổn định và tái tưới máu mạch vành của nhóm 
ivabradine thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm placebo (hình 3 và bảng 2). 
 Hình 3: Tần suất dồn nhập viện vì nhồi máu cơ tim của 2 nhóm 
placebo (đường trên) và ivabradine (đường dưới) trong nghiên cứu 
BEAUTIFUL (bệnh nhân có tần số tim ban đầu ≥ 70/phút). 
Bảng 2: Các biến cố tim mạch nặng ở những bệnh nhân tham gia 
BEAUTIFUL có tần số tim ban đầu ≥ 70/phút. 
 Nhóm 
ivabradine 
(n = 
2699) 
Nhóm 
placebo 
(n = 
2693) 
Tỉ số 
nguy cơ 
(KTC 95%) 
Trị 
số p 
Chết do 
nguyên nhân tim 
mạch, nhập viện vì 
NMCT cấp hoặc 
nhập viện vì suy 
tim 
463 
(17,2%) 
498 
(18,5%) 
0,91 
(0,81-1,04) 
0,17 
Tử vong 
chung 
331 
(12,3%) 
324 
(12,0%) 
1,02 
(0,87-1,19) 
0,82 
Tử vong tim 
mạch 
269 
(10,0%) 
263 
(9,8%) 
1,02 
(0,86-1,21) 
0,82 
Tử vong do 
tim 
82 
(3,0%) 
97 
(3,6%) 
0,84 
(0,62-1,12) 
0,24 
Nhập viện 
vì suy tim 
268 
(9,9%) 
271 
(10,1%) 
0,97 
(0,82-1,15) 
0,76 
Nhập viện 
vì NMCT 
85 
(3,1%) 
131 
(4,9%) 
0,64 
(0,49-0,84) 
0,001 
Nhập viện 
vì NMCT hoặc 
ĐTN không ổn 
định 
143 
(5,3%) 
182 
(6,8%) 
0,78 
(0,62-0,97) 
0,023 
Tái tưới 
máu mạch vành 
76 
(2,8%) 
108 
(4,0%) 
0,70 
(0,52-0,93) 
0,016 
Ghi chú: NMCT = nhồi máu cơ tim ; ĐTN = đau thắt ngực. 
Nhánh placebo của BEAUTIFUL (n = 5438) được theo dõi như một 
nghiên cứu đoàn hệ. Các tác giả dùng mô hình các nguy cơ tương xứng Cox 
(Cox proportional hazard models) để xác định các yếu tố dự báo độc lập tử 
vong tim mạch, nhập viện vì suy tim, nhập viện vì nhồi máu cơ tim và tái 
tưới máu mạch vành 18. Trong số các biến được đưa vào phân tích trong mô 
hình có tần số tim ban đầu (tần số tim được phân thành 2 mức là ≥ 70/phút 
và < 70/phút). Kết quả phân tích cho thấy những bệnh nhân có tần số tim ≥ 
70/phút có nguy cơ tử vong tim mạch tăng 34% (p = 0,0041), nguy cơ nhập 
viện vì suy tim tăng 53% (p < 0,0001), nguy cơ nhập viện vì nhồi máu cơ 
tim tăng 46% (p = 0,0066) và nguy cơ tái tưới máu mạch vành tăng 38% (p 
= 0,037) (đã hiệu chỉnh theo các đặc điểm ban đầu khác). Ứng với mỗi mức 
tăng tần số tim 5 nhát/phút, tử vong tim mạch tăng 8% (p = 0,0005), nhập 
viện vì suy tim tăng 16% (p < 0,0001), nhập viện vì nhồi máu cơ tim tăng 
7% (p = 0,052) và tái tưới máu mạch vành tăng 8% (p = 0,034). Kết quả 
nghiên cứu nhánh placebo của BEAUTIFUL đã khẳng định ý nghĩa tiên 
lượng quan trọng của tim nhanh đối với người bệnh mạch vành. Hơn nữa, nó 
còn cho phép xác định một ngưỡng tần số tim mà kể từ đó dự hậu của người 
bệnh mạch vành có rối loạn chức năng thất trái trở nên xấu hơn một cách rõ 
rệt (70/phút). 
Nói tóm lại, nghiên cứu BEAUTIFUL đã chứng minh một cách thuyết 
phục lợi ích của việc ức chế chọn lọc tần số tim bằng ivabradine ở những 
người bệnh mạch vành mạn có rối loạn chức năng thất trái và tần số tim cơ 
bản ≥ 70/phút (87% trong số này đang dùng thuốc chẹn bêta). Ở những đối 
tượng này, điều trị bằng ivabradine giảm 36% nguy cơ nhồi máu cơ tim và 
30% nguy cơ tái tưới máu mạch vành. Theo tính toán của các tác giả, điều trị 
1000 bệnh nhân mạch vành có đặc điểm như trong BEAUTIFUL sẽ giúp 
ngăn ngừa 10 ca nhồi máu cơ tim và 6 ca tái tưới máu mạch vành mỗi năm. 
Kết quả BEAUTIFUL đã giúp nâng vị trí của ivabradine từ một thuốc dùng 
thay thế cho chẹn bêta trong trường hợp bệnh nhân không dung nạp hay có 
chống chỉ định với chẹn bêta thành một thuốc dùng phối hợp với chẹn bêta 
để cải thiện dự hậu của bệnh nhân. 
Tại Hội nghị khoa học thường niên năm 2008 của Hội Tim mạch 
Châu Âu được tổ chức vừa qua tại Munich (Đức), cả GS Kim Fox (nguyên 
chủ tịch Hội Tim mạch Châu Âu) lẫn GS Roberto Ferrari (tân chủ tịch Hội 
Tim mạch Châu Âu) đều cho rằng cần sửa đổi bổ sung bảng hướng dẫn điều 
trị đau thắt ngực ổn định năm 2006 của Hội. Theo hai ông, trong số các sửa 
đổi bổ sung có 2 điểm sau : (1) Cần đếm tần số tim ở mọi người bệnh mạch 
vành và dựa vào đó để hướng dẫn điều trị ; (2) Nếu tần số tim của bệnh nhân 
≥ 70/phút, nên phối hợp thêm ivabradine (bất kể điều trị nền) nhằm mục 
đích cải thiện dự hậu. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 5_5.PDF 5_5.PDF