Mở đầu: Lao cột sống là vị trí thường gặp nhất của tổn thương xương do lao. Biến chứng nặng nhất của
lao cột sống là liệt, xảy ra trong 27‐47% các trường hợp. Do đó, việc chẩn đoán sớm và tiến hành điều trị rất cần thiết để tránh các biến chứng nặng. Cộng hưởng từ là phương tiện hình ảnh được lựa chọn hiện nay để đánh giá các bệnh lý nhiễm trùng cột sống. Tuy nhiên, biểu hiện của lao cột sống trên cộng hưởng từ có thể lầm với di căn cột sống. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này để đánh giá một cách hệ thống các đặc điểm cộng hưởng từ có thể giúp phân biệt lao với di căn cột sống.
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá các đặc điểm cộng hưởng từ của lao cột sống, di căn cột sống và tìm các đặc
điểm có thể giúp phân biệt lao với di căn cột sống.
Đối tượng‐phương pháp nghiên cứu: hồi cứu 82 hình ảnh cộng hưởng từ của hai nhóm bệnh nhân từ
1/2007 đến 3/2013. Có 37 bệnh nhân lao cột sống và 45 bệnh nhân di căn cột sống được xác định bằng giải phẫu bệnh sau phẫu thuật. Các hình ảnh được hai bác sĩ X‐quang phân tích và mù lâm sàng. Tính độ nhạy và độ đặc hiệu của các dấu hiệu hình ảnh cộng hưởng từ.
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 701 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Vai trò của cộng hưởng từ trong phân biệt lao với di căn cột sống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
  sống,  đây  là 
nguyên  nhân  gây  hoại  tử  thân  sống  vô mạch. 
Khi áp lực trong tổn thương dưới dây chằng tiếp 
tục tăng lên sẽ gây ấn lõm mặt trước thân sống 
và ổ áp‐xe sẽ lan rộng dưới dây chằng dọc trước 
mà không gây tổn thương đĩa đệm. Theo nghiên 
cứu này, trong di căn cột sống, 93,3% không tổn 
thương  đĩa  đệm,  đây  là  điểm  khác  biệt  rất  rõ 
được  thấy  trong  nhiều  nghiên  cứu  khác  cũng 
như trong y văn.  
Tổn thương khoang ngoài màng cứng 
Trong nghiên cứu này, có 97,6% trường hợp 
có tổn thương khoang ngoài màng cứng, 97,3% 
lao  cột  sống  và  97,8%  di  căn  cột  sống  có  tổn 
thương ngoài màng cứng. Các nghiên cứu khác 
cũng cho thấy tỉ lệ tổn thương ngoài màng cứng 
do lao cột sống chiếm tỉ lệ khá cao. Phạm Quang 
Cơ(12) nghiên cứu trên 73 bệnh nhân lao cột sống 
năm 2008  cho  thấy 98,6%  có  tổn  thương ngoài 
màng  cứng. Nghiên  cứu  của  Gehlot(6)  trên  70 
bệnh nhân  lao  cột  sống  cho  thấy  82,9%  có  tổn 
thương  ngoài  màng  cứng.  Nghiên  cứu  của 
Zaidi(15) trên 75 bệnh nhân lao cột sống cho thấy 
78,7% có áp‐xe ngoài màng cứng. Tính chất bắt 
thuốc  tương  phản  từ  của  tổn  thương  ngoài 
màng  cứng  trong  hai  nhóm  bệnh  cũng  khác 
nhau. Phần lớn tổn thương khoang ngoài màng 
cứng  do  lao  giảm  tín  hiệu  trên  T1W,  tăng  tín 
hiệu  trên  T2W,  bắt  thuốc  viền.  Tổn  thương 
khoang  ngoài màng  cứng  do  di  căn  giảm  tín 
hiệu trên T1W, tăng tín hiệu trên T2W, bắt thuốc 
đồng nhất. 
Tổn thương mô mềm cạnh sống 
Có  79,3%  trường  hợp  nghiên  cứu  có  tổn 
thương mô mềm cạnh sống, 97,3% lao cột sống 
và  97,8%  di  căn  cột  sống  có  tổn  thương mô 
mềm  cạnh  sống.  Các  nghiên  cứu  khác  cũng 
cho  kết  quả  tương  tự.  Phạm  Quang  Cơ(12) 
nghiên  cứu  trên  73  bệnh  nhân  lao  cột  sống 
năm  2008  cho  thấy  98,6%  có  áp‐xe mô mềm 
cạnh  sống. Nghiên  cứu  của  Gehlot(6)  trên  70 
bệnh  nhân  lao  cột  sống  cho  thấy  áp‐xe  mô 
mềm cạnh sống gặp  trong 92,8%. Tổn  thương 
mô  mềm  cạnh  sống  trong  lao  cột  sống  có 
khuynh  hướng  lan dài  hơn  so  với di  căn  cột 
sống.  Đa  số  tổn  thương mô mềm  cạnh  sống 
trong  lao cột sống  thường có chiều dài  tương 
ứng với 2 hoặc 3 đốt sống  trong khi phần  lớn 
tổn  thương mô mềm  cạnh  sống  trong di  căn 
kéo dài tương ứng vị trí 1 đốt sống. Ngoài ra, 
lao cột sống còn có dạng tổn thương đặc trưng 
là  lan dưới các dây chằng dọc,  thường  là dây 
chằng dọc  trước. Trong nghiên  cứu này,  54% 
trường  hợp  lao  cột  sống  có  tổn  thương  lan 
dưới dây chằng dọc  trước  trong khi không có 
trường hợp di căn cột sống nào có tổn thương 
dạng  này.  Tín  hiệu  trên  T1W,  T2W  của  tổn 
thương mô mềm  cạnh  sống  trong  hai  nhóm 
bệnh  lý  tương  tự  nhau  nhưng  tính  chất  bắt 
thuốc  tương  phản  từ  khác  nhau  rõ  rệt.  Phần 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 276
lớn  tổn  thương  mô  mềm  cạnh  sống  do  lao 
giảm  tín  hiệu  trên  T1W,  tăng  tín  hiệu  trên 
T2W,  bắt  thuốc  viền.  Tổn  thương  mô  mềm 
cạnh  sống do di  căn giảm  tín hiệu  trên T1W, 
tăng tín hiệu trên T2W, bắt thuốc đồng nhất.  
Các đặc điểm giúp phân biệt  lao với di căn 
cột sống 
Trong  82  trường  hợp  nghiên  cứu,  có  4/37 
trường hợp lao cột sống có chẩn đoán trên cộng 
hưởng từ  là di căn. Do đó, chúng tôi tính được 
độ nhạy,  độ đặc hiệu, giá  trị  tiên  đoán dương, 
giá  trị  tiên  đoán âm và  độ  chính xác  của  cộng 
hưởng từ trong chẩn đoán lao cột sống lần lượt 
là  89,2%,  97,8%,  97,1%,  91,7%  và  93,9%. Trong 
nghiên cứu có 1/45  trường hợp di căn cột sống 
có chẩn đoán trên cộng hưởng từ là lao cột sống. 
Do  đó,  chúng  tôi  tính  được  độ  nhạy,  độ  đặc 
hiệu, giá  trị  tiên  đoán dương, giá  trị  tiên  đoán 
âm  và  độ  chính  xác  của  cộng  hưởng  từ  trong 
chẩn  đoán  di  căn  cột  sống  lần  lượt  là  97,8%; 
89,2%;  91,7%;  97,1% và  93,9%. Chúng  tôi nhận 
thấy  độ  nhạy,  độ  đặc  hiệu,  giá  trị  tiên  đoán 
dương, giá trị tiên đoán âm và độ chính xác của 
cộng hưởng từ trong chẩn đoán lao cột sống và 
di căn cột sống đều cao >80%. Nghiên cứu của 
Danchaivijitr(4) cũng cho thấy cộng hưởng từ có 
độ nhạy 100% và độ đặc hiệu 88,2% trong chẩn 
đoán  lao  cột  sống.  Trong  nghiên  cứu  này,  các 
dấu hiệu gặp trong lao cột sống với tỉ lệ cao hơn 
có ý nghĩa thống kê so với di căn cột sống là bề 
mặt thân sống không đều, bắt thuốc viền trong 
thân sống,  tổn  thương đĩa đệm, bắt  thuốc viền 
tại vị trí đĩa đệm, tổn thương ngoài màng cứng 
ngang mức ≥3 đốt sống, áp‐xe ngoài màng cứng, 
tổn  thương mô mềm cạnh  sống ngang mức  ≥3 
đốt sống và áp‐xe mô mềm cạnh sống. Các dấu 
hiệu gặp trong di căn cột sống với tỉ lệ cao hơn 
có ý nghĩa  thống kê so với  lao cột sống  là: xẹp 
thân sống với bờ sau  lồi đều ra sau, không  tổn 
thương đĩa đệm, bất thường tín hiệu kèm phình 
lớn  thành  phần  sau  đốt  sống  và  tổn  thương 
cuống sống + mỏm gai. Trong các dấu hiệu trên, 
ba dấu hiệu bề mặt  thân  sống không  đều,  tổn 
thương đĩa đệm, áp‐xe ngoài màng cứng có độ 
đặc hiệu và  độ  chính xác cao >80%  trong chẩn 
đoán lao cột sống. Không tổn thương đĩa đệm là 
dấu hiệu có độ nhạy, độ đặc hiệu và  độ  chính 
xác cao >80%  trong chẩn đoán di căn cột sống. 
Các dấu hiệu còn  lại đều có đặc hiệu cao trong 
phân biệt lao với di căn cột sống nhưng độ nhạy 
thấp hơn các dấu hiệu trên. Theo nghiên cứu của 
Danchaivijitr(4),  các dấu hiệu  có  độ nhạy và  độ 
đặc hiệu cao > 80% là phá hủy bề mặt thân sống 
(100%,  81,4%),  mô  mềm  cạnh  sống  (96,8%, 
85,3%), tăng tín hiệu đĩa đệm trên T2W (80,6%, 
82,4%). Các dấu hiệu có độ nhạy cao nhưng đặc 
hiệu  thấp  là phù  tủy xương  (90,3%, 76,5%), bắt 
thuốc  tương phản  từ  tủy xương  (100%, 42,5%), 
tổn thương thành phần sau (93,5%, 38,2%), hẹp 
ống sống (87,1%, 26,5%), chèn ép tủy và rễ thần 
kinh  (80,6%,  38,2%). Các dấu  hiệu  có  độ  nhạy 
thấp  nhưng  độ  đặc  hiệu  cao  là  bắt  thuốc  đĩa 
đệm  (63,3%,  84,2%),  xẹp  thân  sống  (58,1%, 
85,3%), gù cột sống (67,7%, 82,4%). Nghiên cứu 
của  Jung(7)  cho  thấy  độ nhạy,  độ  đặc hiệu  của 
cộng hưởng từ trong chẩn đoán di căn cột sống 
lần lượt là 100%, 93%. Các đặc điểm cộng hưởng 
từ  của di  căn  cột  sống  là  lồi bờ  sau  thân  sống 
(74%) với độ nhạy, độ đặc hiệu lần lượt là 74%, 
80%;  bất  thường  tín  hiệu  các  đốt  sống  khác 
ngoài đốt sống bị xẹp (63%) với độ nhạy, độ đặc 
hiệu  lần  lượt  là 63%, 95%; bất  thường  tín hiệu 
của cuống sống (85%); tổn thương khoang ngoài 
màng  cứng  (74%);  tổn  thương mô mềm  cạnh 
sống (41%) với độ nhạy, độ đặc hiệu lần lượt là 
41%, 93%.  
KẾT LUẬN 
Cộng hưởng  từ có độ nhạy và độ đặc hiệu 
cao  trong phân biệt  lao cột sống với di căn cột 
sống. Độ nhạy và độ đặc hiệu của cộng hưởng 
từ trong chẩn đoán lao cột sống lần lượt là 89,2% 
và  97,8%.  Độ  nhạy  và  độ  đặc  hiệu  của  cộng 
hưởng  từ  trong  chẩn  đoán di  căn  cột  sống  lần 
lượt là 97,8% và 89,2%. Ba dấu hiệu bề mặt thân 
sống  không  đều,  tổn  thương  đĩa  đệm,  áp‐xe 
ngoài màng cứng có  độ nhạy,  độ đặc hiệu  cao 
>80%  trong chẩn đoán  lao cột sống. Không  tổn 
thương đĩa đệm là dấu hiệu có độ nhạy, độ đặc 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chẩn Đoán Hình Ảnh  277
hiệu cao >80% trong chẩn đoán di căn cột sống. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bajwa GR  (2009). Evaluation Of The Role Of Mri  In Spinal 
Tuberculosis: A  Study Of  60  Cases.  Pak  J Med  Sci,  25(6): 
pp.944‐947. 
2. Cheng RQ, et al (2012). The clinicpathologic features and MRI 
manifestations of the thoracic lumbar tuberculosis. Health, 4: 
pp.1238‐1240. 
3. Currie  S,  et  al  (2011).  MRI  characteristics  of  tuberculous 
spondylitis. Clinical Radiology, 66: pp.778‐787. 
4. Danchaivijitr  N,  et  al  (2007).  Diagnostic  accuracy  of  MR 
imaging in tuberculous spondylitis. J Med Assoc Thai, 90(8): 
pp.1581‐9. 
5. Fu  TS,  et  al  (2004).  Magnetic  Resonance  Imaging 
Characteristics of Benign and Malignant Vertebral Fractures. 
Chang Gung Med J, 27: pp.808‐15. 
6. Gehlot PS, et al (2012). Pott’s Spine: Retrospective Analysis of 
MRI  Scans  of  70 Cases.  Journal  of Clinical  and Diagnostic 
Research. 6(9): pp.1534‐1538. 
7. Jung HS, et al (2003). Discrimination of Metastatic from Acute 
Osteoporotic  Compression  Spinal  Fractures  with  MR 
Imaging. RadioGraphics, 23: pp.179–187. 
8. Khalequzzaman  S,  et  al  (2012).  Tuberculosis  of  Spine 
Magnetic Resonance Imaging (MRI) Evaluation of 42 Cases, 
Medicine Today, 24 (02): pp.59‐62. 
9. Kim  DW,  et  al  (2006).  Atypical  Presentation  of  Spinal 
Tuberculosis Misadiagnosed  as Metastatic  Spine  Tumor.  J 
Korean Neurosurg Soc, 39: pp.451‐454. 
10. Liu  JH,  et  al  (2003). MRI diagnosis  of  vertebral metastasis. 
Zhonghua Zhong Liu Za Zhi,25(1): pp.70‐3. 
11. Pande  KC  and  Babhulkar  SS  (2002).  Atypical  Spinal 
Tuberculosis. Clinical Orthopaedics And  Related  Research, 
398: pp. 67–74. 
12. Phạm Quang Cơ (2008). Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cộng 
hưởng từ trong chẩn đoán lao cột sống, Luận án chuyên khoa 
II, Đại học Y Dược TPHCM, tr.52‐74. 
13. Rankine  JJ  (2004).  MRI  of  spinal  infection.  Current 
Orthopaedics, 18: pp.426–433. 
14. Yuzawa Y,  et al  (2005). Magnetic  resonance  and  computed 
tomography‐based  scoring  system  for  the  differential 
diagnosis of vertebral  fractures  caused by osteoporosis and 
malignant tumors. J Orthop Sci, 10: pp.345–352. 
15. Zaidi H,  et  al  (2010).  Frequency  and Magnetic  Resonance 
Imaging  Patterns  of  Tuberculous  Spondylitis  Lesions  in 
Adults.  Journal  of  the College  of  Physicians  and  Surgeons 
Pakistan, 20(5): pp.303‐306. 
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2013 
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 269_9343.pdf 269_9343.pdf