Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 578
VIÊM THỰC QUẢN TRÀO NGƯỢC Ở BỆNH NHÂN CÓ TRIỆU CHỨNG 
TIÊU HÓA TRÊN BỆNH NHÂN CHƯA TỪNG ĐIỀU TRỊ  
VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI NHIỄM H. PYLORI 
Quách Trọng Đức* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: (1) Xác định tần suất, mức độ nặng của viêm thực quản trào ngược (VTQTN), và (2) đánh giá 
mối liên quan giữa VTQTN với nhiễm H. pylori ở các bệnh nhân có biểu hiện bệnh đường tiêu hóa trên chưa 
từng được điều trị. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang tiến hành trên 203 bệnh nhân. Nội soi tiêu hóa trên 
được thực hiện trên tất cả các bệnh nhân tham gia nghiên cứu. VTQTN được chẩn đoán và đánh giá mức độ 
nặng theo phân loại Los Angeles. Nhiễm H. pylori được chẩn đoán bằng hai phương pháp là thử nghiệm urease 
nhanh dựa trên mẫu mô sinh thiết và mô bệnh học. Bệnh nhân được xem là nhiễm H. pylori nếu ít nhất một 
trong hai xét nghiệm nêu trên dương tính. 
Kết quả: Tỉ lệ VTQTN ở bệnh nhân có triệu chứng tiêu hóa trên chưa từng được điều trị là 10,9%. Có 10% 
trường hợp VTQTN phối hợp với loét dạ dày – tá tràng. Tất cả các trường VTQTN trong nghiên cứu đều ở mức 
độ nhẹ với tỉ lệ độ A và độ B lần lượt là 90,9% (20/22) và 9,1% (2/22). Bệnh nhân nhiễm H. pylori ít bị VTQTN 
hơn so với bệnh nhân không nhiễm H. pylori (p =0,004, OR = 0,2 (KTC95%, 0,07 – 0,6)). 
Kết luận: VTQTN khá thường gặp trong chăm sóc sức khỏe ban đầu nhưng hầu hết ở mức độ nhẹ. Có mối 
liên quan nghịch giữa VTQTN với tình trạng nhiễm H. pylori. 
Từ khóa: GERD, viêm thực quản trào ngược, Helicobacter pylori 
ABSTRACT 
EROSIVE REFLUX ESOPHAGITIS IN NAÏVE PATIENTS WITH UPPER GASTROINTESTINAL 
SYMPTOMS AND ITS ASSOCIATION WITH H. PYLORI INFECTION 
Quach Trong Duc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 578 ‐ 583 
Aim: (1) To evaluate the prevalence and severity of erosive reflux esophagitis (ERD), and (2) to assess the 
association between ERD and H. pylori in naïve patients with upper gastrointestinal symptoms. 
Patients  and  methods:  A  cross‐sectional  study  was  conducted  on  203  naïve  patients.  Upper 
gastrointestinal endoscopy was performed in every patient. H. pylori infection was diagnosed by rapid urease test 
and pathological examination. Patients were considered H. pylori (+) if at least one of the two above‐mentioned 
tests was positive.  
Results: The rate of ERD was 10.9%. All of ERD were in mild grade (90.9% in grade A and 9.1% in grade 
B). 10% of patients with ERD also had peptic ulcer disease. Patients with H. pylori infection were less likely to 
suffer from ERD than those without H. pylori infection (p =0.004, OR = 0.2 (CI95%, 0.07 – 0.6)). 
Conclusion:  ERD  is not uncommon  in primary  care  and mostly  in mild grade. There  is  a  statistically 
negative association between ERD and H. pylori infection. 
Key words: GERD, erosive reflux disease, Helicobacter pylori 
* Bộ môn Nội, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh  
Tác giả liên lạc: TS. Quách Trọng Đức    ĐT: 0918080225.     Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tiêu Hóa 579
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh  trào  ngược  dạ  dày  thực  quản 
(BTNDDTQ)  ngày  càng  phổ  biến  ở  các  nước 
châu Á(21) Các số  liệu về  tần suất của bệnh chủ 
yếu dựa trên khảo sát tần suất triệu chứng trào 
ngược  điển  hình  trên  cộng  đồng  và  tần  suất 
viêm thực quản do trào ngược (VTQTN) trên nội 
soi.  Sollano và  cs  (2007)  thực hiện một nghiên 
cứu tại Philippine ghi nhận tỉ lệ VTQTN tăng từ 
2,9% lên 6,3% trong 6 năm từ 1997 ‐ 2003(15). Ho 
và cs (2005) cũng ghi nhận tần suất VTQTN tại 
Singapore tăng rệt trong khi tỉ lệ nhiễm H. pylori 
giảm dần trong thời gian theo dõi 10 năm(2). Tại 
Việt Nam,  các  nghiên  cứu  thực  hiện  tại  cùng 
một bệnh viện  tại TP. HCM  trong  thời gian 15 
năm  cho  thấy  tần  suất VTQTN  tăng  trong khi 
tần  suất  loét  dạ  dày  –  tá  tràng  giảm  đi  rõ 
rệt(9,12,13). Tuy nhiên cho đến hiện nay vẫn chưa 
có nghiên cứu nào trong nước cho biết tỉ lệ thực 
sự của VTQTN và mối  liên quan giữa VTQTN 
với nhiễm H. pylori ở các bệnh nhân chưa  từng 
được  điều  trị  các  triệu  chứng  tiêu  hóa  trên. 
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục đích 
(1)  Xác  định  tần  suất  và  mức  độ  nặng  của 
VTQTN;  và  (2)  xác  định  mối  liên  quan  giữa 
VTQTN với nhiễm H. pylori ở bệnh nhân có biểu 
hiện bệnh tiêu hóa trên nhưng chưa từng được 
điều trị.  
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
Bệnh nhân ngoại trú tại BV Đại Học Y Dược 
TP. HCM thỏa các tiêu chuẩn sau: 
‐ Tiêu chuẩn chọn bệnh:  
Tuổi ≥ 18  
Có triệu chứng đường tiêu hóa trên 
Được thực hiện nội soi tiêu hóa trên 
‐ Tiêu chuẩn loại trừ:  
Tiền  sử đã  làm xét nghiệm  chẩn  đoán và  / 
hoặc điều trị tiệt trừ H. pylori. 
Chưa  từng  được  điều  trị  bệnh  đường  tiêu 
hóa trên. 
Có  dùng  thuốc  ức  chế  bơm  proton,  kháng 
thụ thể H2, kháng sinh, bismuth ≤ 4 tuần. 
Tiền  căn  phẫu  thuật  đường  tiêu  hóa  trên 
hoặc ung thư đường tiêu hóa trên. 
Bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên  cứu  tiền  cứu, mô  tả  cắt ngang, với 
phương  pháp  chọn  mẫu  thuận  tiện.  Cỡ  mẫu 
được tính theo công thức:  
( )
2
2
2/1 1
d
ppZn −×= −α
Trong  đó: n  là  cỡ mẫu,  chọn d  (độ  chính 
xác  tuyệt  đối mong muốn)  là  0,05;  α  =  0,05 
tương ứng với Z1‐α/2 = 1,96; p =0,149 là tỉ lệ ước 
đoán  của  quần  thể,  được  tính  dựa  trên  tỉ  lệ 
VTQTN theo nghiên cứu trước đây của chúng 
tôi(11). Áp dụng vào  công  thức  trên  tính  được 
cỡ mẫu tối thiểu n = 197. 
Phương pháp tiến hành 
Tất cả bệnh nhân tham gia nghiên cứu được 
thực hiện nội soi tiêu hóa trên bằng máy nội soi 
Olympus Video Exera GIF‐160 hoặc GIF‐150Q. 
Trên  nội  soi  ghi  nhận  các  tổn  thương  ở  thực 
quản, dạ dày và tá tràng. Ở mỗi bệnh nhân, chẩn 
đoán nhiễm H. pylori được  đánh giá  đồng  thời 
bằng xét nghiệm urease nhanh dựa trên mẫu mô 
sinh thiết và xét nghiệm mô bệnh học.  
Xét  nghiệm  urease  nhanh  dựa  trên  mẫu 
mô  sinh  thiết: một mẫu mô  được  lấy  ở vùng 
1/3 dưới  thân  vị  phía  bờ  cong  lớn,  phía  trên 
đường ranh giới thân‐hang vị khoảng 2cm. Vị 
trí sinh thiết này đã được chứng minh là giúp 
thử nghiệm urease dựa trên mẫu mô sinh thiết 
đạt độ nhạy chẩn đoán H. pylori tối ưu(10). Chế 
phẩm dùng cho thử nghiệm này trong nghiên 
cứu  của  chúng  tôi  là  PyloriTek  (Serim 
Research Corp., Elkhart,  Ind.)  có  độ nhạy  90‐
98,5% vả độ chuyên biệt 97‐100%(3,7).  
Xét nghiệm mô bệnh học: hai mẫu mô được 
sinh thiết từ vùng giữa hang vị và giữa thân vị 
phía bờ  cong  lớn. Trên giải phẫu bệnh nhuộm 
Giemsa để đánh giá tình trạng nhiễm H. pylori.  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 580
Tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  sử  dụng  trong 
nghiên cứu 
Mức  độ VTQTN  được  đánh giá  theo phân 
loại Los‐Angeles(16).  
Loét  hoặc  sẹo  loét  dạ  dày  –  tá  tràng  đều 
được xếp chung vào nhóm loét dạ dày – tá tràng 
vì  bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  chưa  từng  có 
tiền sử điều trị H. pylori và do tính chất bệnh loét 
dạ dày – tá tràng có thể tự lành và tái phát theo 
chu kỳ nếu không  điều  trị nguyên nhân. Bệnh 
nhân được xem là có nhiễm H. pylori nếu kết quả 
PyloriTek (+) trong vòng 1 giờ và / hoặc trên mô 
bệnh học quan sát thấy H. pylori. 
Quản lý và phân tích số liệu 
Sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để quản lý số 
liệu và phân tích thống kê. Sử dụng thống kê mô 
tả để  tính  trung bình và  tỉ  lệ; phép kiểm χ2 để 
khảo sát mối  liên quan giữa hai biến định  tính 
và hồi qui đa biến để xác định các yếu tố nguy 
cơ của VTQTN. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 07 đến tháng 12 năm 2012, chúng 
tôi có 203 bệnh nhân  thỏa  tiêu chuẩn  tham gia 
nghiên cứu với  tuổi  trung bình  là 36 ± 11  (nhỏ 
nhất 18,  lớn nhất 76). Có 57,6%  (117/203) bệnh 
nhân nữ và 47,4% (86/203) bệnh nhân nam. Tỉ lệ 
nam:nữ  là  1:1,36.  Tỉ  lệ  nhiễm  HP  của  nhóm 
nghiên cứu là 56,2% (114/203).  
Đặc  điểm  nội  soi  và  tỉ  lệ  nhiễm 
Helicobacter pylori trong các thể bệnh 
Tỉ  lệ  VTQTN  trong  nghiên  cứu  là  10,9% 
(22/203) trong đó 9,1% (2/22) trường hợp có kết 
hợp đồng  thời với  loét dạ dày –  tá  tràng  (bảng 
1). Tất cả các trường hợp VTQTN trong nghiên 
cứu  đều  ở  mức  độ  nhẹ  theo  phân  loại  Los 
Angeles với tỉ lệ bệnh nhân có độ A và B lần lượt 
là  90,9%  (20/22) và  9,1%  (2/22). Tỉ  lệ nhiễm H. 
pylori  theo  từng  dạng  tổn  thương  trên  nội  soi 
được  trình  bày  ở  bảng  2.  Nếu  không  tính  2 
trường hợp có tổn thương phối hợp VTQTN và 
loét dạ dày – tá tràng, chúng tôi có được kết quả 
về tỉ lệ nhiễm H. pylori trong các thể bệnh được 
trình bày ở biều đồ 1.  
Bảng 1: Đặc điểm nội soi của nhóm nghiên cứu 
 Đặc điểm tổn thương 
trên nội soi 
n % 
Bình thường 7 3,4 
Viêm dạ dày – tá tràng 152 74,9 
Loét / sẹo loét dạ dày 5 2,5 
Loét / sẹo loét tá tràng 17 8,4 
VTQTN 20 9,9 
VTQTN và loét dạ dày – tá tràng 2 1 
Tổng cộng 203 100 
Bảng 2: Tỉ lệ nhiễm H. pylori theo dạng tổn thương 
trên nội soi 
 Tỉ lệ HP nhiễm tính riêng 
theo tổn thương trên nội 
soi 
n % 
Bình thường 1/7 14,3 
VTQTN 5/20 25 
Viêm dạ dày – tá tràng 86/152 56,6 
Loét / sẹo loét dạ dày 4/5 80 
Loét / sẹo loét tá tràng 16/17 94,1 
VTQTN kết hợp loét dạ dày – 
tá tràng 2/2 100 
Biểu đồ 1: Tỉ lệ nhiễm H. pylori theo dạng tổn 
thương trên nội soi tiêu hóa trên 
Liên quan  giữa VTQTN  với  tuổi,  giới  và 
Helicobacter pylori 
Chúng tôi gộp bệnh nhân trong nghiên cứu 
thành ba nhóm: Nhóm 1 bao gồm các bệnh nhân 
có kết quả nội soi bình thường hoặc viêm dạ dày 
– tá tràng. Nhóm này tương ứng với rối loạn tiêu 
hóa  chức  năng  hoặc  BTNDDTQ  không  có  tổn 
thương trên nội soi. Nhóm 2 gồm các bệnh nhân 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tiêu Hóa 581
có loét hoặc sẹo loét ở dạ dày – tá tràng và nhóm 
3 gồm các bệnh nhân bị VTQTN. Nếu lấy nhóm 
1 làm nhóm tham chiếu thì tỉ số chênh về nhiễm 
H. pylori ở nhóm  loét dạ dày  ‐  tá  tràng cao gấp 
8,27  (p=0,001,  KTC95%  1,87  –  36,6)  và  nhóm 
VTQTN  thấp  hơn  và  chỉ  bằng  0,27  (p=0,017, 
KTC95% 0,09 – 0,79).  
Trong nghiên cứu này có 2 trường hợp đồng 
thời có  tổn  thương VTQTN và  loét dạ dày –  tá 
tràng  nên  chúng  tôi  không  đưa  vào  phân  tích 
mối  liên quan. Dựa  trên kết quả phân  tích đơn 
biến chúng tôi có kết quả ở bảng 3. 
Bảng 3: Mối liên quan giữa VTQTN với tuổi, giới và 
tình trạng nhiễm H. pylori 
Viêm thực quản do 
trào ngược p 
Có Không 
Giới (nam/nữ) 12/8 72/109 0,068 
Tuổi (trung bình ± độ 
lệch chuẩn) 38,3 ± 9,8 35,7 ± 11 0,44 
H. pylori (+) 5/20 107/181 0,004 
Khi phân tích hồi qui đa biến chúng tôi ghi 
nhận  có  2  yếu  tố  có  liên  quan  độc  lập  với 
VTQTN  là  giới  tính  nam  (p=0,034,  OR  =  2,9 
(KTC95%, 1,1 – 7,8)); và nhiễm H. pylori (p=0,004, 
OR = 0,2 (KTC95%, 0,07 – 0,6)). 
BÀN LUẬN 
Tỉ lệ VTQTN và loét dạ dày – tá tràng 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cho  thấy  tỉ  lệ 
VTQTN là 10,9% và tỉ lệ loét dạ dày – tá tràng là 
11,9%.  Số  liệu  theo  nghiên  cứu  được  lấy mẫu 
trong năm 2011 của chúng tôi tại cùng bệnh viện 
cho  thấy  tỉ  lệ VTQTN  cao hơn  (16,9%) và  tỉ  lệ 
loét dạ dày – tá tràng thấp hơn (6%)(12). Một đặc 
điểm khác là tất cả các trường hợp VTQTN được 
ghi nhận  trong nghiên  cứu này  đều  ở mức  độ 
nhẹ  trong khi  các nghiên  cứu  trong nước  thực 
hiện  tại  các bệnh viện  tuyến  sau  cho  thấy  tỉ  lệ 
VTQTN mức độ nặng từ 1,9 – 5,9%(6, 12, 13, 19). Điều 
này  có  thể  lí  giải  là  do  đối  tượng  bệnh  nhân 
trong  các  nghiên  cứu  trước  đây  bao  gồm  cả 
những  trường hợp đã  từng được điều  trị ở các 
bệnh viện tuyến trước nhưng không thành công. 
VTQTN có khuynh hướng dễ tái phát khi ngưng 
thuốc, đặc biệt  là các  trường hợp VTQTN mức 
độ nặng. Trong khi đó, tỉ lệ loét dạ dày – tá tràng 
(với nguyên nhân thường gặp nhất  là H. pylori) 
có khuynh hướng giảm một khi đã tiệt trừ thành 
công. Do đó không có gì đáng ngạc nhiên là số 
liệu  thống  kê  tại  các  bệnh  viện  tuyến  trên  có 
khuynh hướng cho  tỉ  lệ VTQTN cao hơn  trong 
khi tỉ lệ loét dạ dày – tá tràng thấp hơn so với các 
đơn vị y tế cơ sở, đồng thời tỉ lệ VTQTN mức độ 
nặng ở tại các bệnh viện tuyến sau cũng sẽ cao 
hơn. Khi hồi  cứu y văn  trong nước,  chúng  tôi 
chưa ghi nhận nghiên cứu nào cho thấy số  liệu 
thực  tế  tại các  tuyến y  tế ban  đầu. Tuy nghiên 
cứu này được tiến hành tại bệnh viện ĐHYD TP 
HCM là một bệnh viện tuyến sau, chúng tôi cho 
rằng với tiêu chuẩn chọn bệnh chỉ bao gồm các 
bệnh nhân chưa từng được điều trị bệnh đường 
tiêu hóa  trên  thì số  liệu của nghiên cứu sẽ gần 
giống  như  tại  tuyến  y  tế  cơ  sở.  Đặc  điểm 
VTQTN mức độ nhẹ của nhóm bệnh nhân tham 
gia nghiên  cứu này  là một  cơ  sở  lý  luận quan 
trọng  cho  chiến  lược  điều  trị duy  trì kiểu ngắt 
quãng hoặc theo nhu cầu vốn thuận tiện và tiết 
kiệm hơn, phù hợp với VTQTN ở châu Á(21).  
Liên quan giữa nhiễm Helicobacter pylori 
và các thể bệnh trên nội soi 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ 
lệ nhiễm H. pylori ở bệnh nhân  loét dạ dày và 
loét tá tràng trong nghiên cứu lần lượt là 80% và 
94,1% và khi tính chung là 90,9%. Như vậy, mặc 
dù nghiên cứu tại ở một số quốc gia gần đây ghi 
nhận rằng tỉ lệ loét dạ dày – tá tràng không do 
H. pylori có xu hướng ngày càng  tăng(8), số  liệu 
hiện tại ở nước ta cho thấy tỉ  lệ nhiễm H. pylori 
trong các  thể bệnh viêm  loét dạ dày –  tá  tràng 
gần như không thay đổi gì so với trước đây. Do 
đó,  trong các  trường hợp phát hiện bệnh nhân 
có loét dạ dày – tá tràng trên nội soi nhưng kết 
quả xét nghiệm chẩn đoán H. pylori (‐), cần thận 
trọng xem xét lại các yếu tố gây âm tính giả của 
phương pháp  chẩn  đoán  và  trong  trường  hợp 
cần  thiết  có  thể  cần  phải  phối  hợp  với  một 
phương pháp chẩn đoán H. pylori thứ hai. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 582
Trong nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy 
nhiễm  H.  pylori  liên  quan  với  giảm  nguy  cơ 
VTQTN gấp 5  lần. Đây  là nghiên cứu đầu  tiên 
trong nước cho thấy mối liên quan này. Một số 
nghiên  cứu  trước  đây  tại  các  cộng  đồng  khác 
cũng  cho  thấy  có mối  liên  quan  nghịch  giữa 
nhiễm H. pylori và VTQTN. Chung và cs (2011) 
thực  hiện một  nghiên  cứu  bệnh  chứng  có  kết 
xứng hai yếu  tố  tuổi và giới  trên 5,616  trường 
hợp kiểm tra sức khỏe được làm nội soi tiêu hóa 
trên  và  chẩn  đoán  nhiễm  H.  pylori  bằng  xét 
nghiệm  huyết  thanh  học  tại Hàn Quốc(1).  Kết 
quả  của  nghiên  cứu  này  cho  thấy  tần  suất 
nhiễm  H.  pylori  ở  nhóm  bệnh  nhân  VTQTN 
thấp  hơn  nhóm  bệnh  nhân  không  bị VTQTN 
(38,4%  so  với  58,2%,  p  <0,001.  Tỉ  lệ  nhiễm H. 
pylori ở nhóm VTQTN mức độ nặng cũng thấp 
hơn so với nhóm VTQTN mức độ nhẹ (22,4% ở 
nhóm  có VTQTN  độ C  và D,  so  với  34,3%  ở 
nhóm độ A và B, p<0,001). Tương tự, Shirota và 
cs (1999) ghi nhận tại Nhật tỉ lệ nhiễm H. pylori 
ở  nhóm  bệnh  nhân  không  bị  BTNDDTQ, 
VTQTN mức độ nhẹ, và VTQTN mức độ nặng 
khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê,  giảm  dần  ở  3 
nhóm với tỉ lệ lần lượt là 60,7%, 47,8% và 14,8% 
(p  <  0,05)(14). Nghiên  cứu  của  Shirota  còn  cho 
thấy nhóm bệnh nhân VTQTN có mức độ viêm 
teo niêm mạc dạ dày nhẹ hơn so với nhóm bệnh 
nhân  không  bị  BTNDDTQ.  Điều  này  được  lý 
giải là do nhiễm H. pylori làm tăng tỉ lệ viêm teo 
niêm mạc dạ dày. Hệ quả  là dịch vị sẽ  ít  toan 
hơn nên  ít  có  khả  năng  gây  tổn  thương  niêm 
mạc  thực  quản  ngay  cả  khi  bị  trào  ngược  lên 
thực quản. Một số nghiên cứu còn cho thấy mối 
liên quan này rõ rệt hơn khi xét riêng chủng H. 
pylori có sinh CagA(17,18). Chủng H. pylori CagA 
(+) có độc tính và nguy cơ cao gây viêm toàn bộ 
dạ dày. Một khi tình trạng viêm thân vị xảy ra, 
tổn thương tê bào thành ở vùng thân vị sẽ dẫn 
đến  độ  toan  của  dịch  vị  giảm  đi.  Tuy  trong 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi  không  đánh  giá  về 
kiểu gen của H. pylori nhưng nghiên cứu  trong 
nước cho  thấy hơn 90% chủng H. pylori ở Việt 
Nam là chủng sinh CagA(4). Điều này góp phần 
lý giải phát hiện của chúng tôi về mối liên quan 
giữa VTQTN  và  nhiễm H. pylori  trong  nghiên 
cứu này. 
Cuối cùng, một vấn đề đặt ra cho bác sĩ lâm 
sàng  là có nên  tiệt  trừ H. pylori hay không nếu 
phát hiện trên bệnh nhân BTNDDTQ. Wu và cs 
(2004) ghi nhận sau khi tiệt trừ H. pylori thì tình 
trạng BTNDDTQ trở nên khó kiểm soát hơn, có 
lẽ là do sự hồi phục của các tế bào thành ở vùng 
thân  vị  gây  ra  sự  chế  tiết  acid  dịch  vị  nhiều 
hơn(20). Tuy nhiên,  chúng  ta  đều biết  rằng  trên 
thực  tế  tại Việt Nam dạng bệnh  lý ác  tính  của 
đường tiêu hóa trên thường gặp nhất là ung thư 
dạ  dày  chứ  không  phải  là  ung  thư  biểu  mô 
tuyến của thực quản. Hơn thế nữa, nhiễm chủng 
H. pylori sinh CagA thì có nguy cơ bị ung thư dạ 
dày cao hơn  trong khi hầu hết các  trường hợp 
BTNDDTQ ở Việt Nam và các nước châu Á nói 
chung gây triệu chứng nhưng hiếm khi nào gây 
biến  chứng  nặng(11,21).  Gần  đây  đồng  thuận 
Maastricht IV của Châu Âu cũng đưa ra khuyến 
cáo rằng việc điều trị lâu dài bằng thuốc ức chế 
bơm proton ở những bệnh nhân BTNDDTQ có 
nhiễm H. pylori nhưng không được điều  trị  tiệt 
trừ  có  thể  làm nặng  thêm  tình  trạng  teo  niêm 
mạc dạ dày _ tiền đề của ung thư dạ dày(5). Do 
đó, quan điểm của chúng tôi là vẫn nên điều trị 
tiệt  trừ H.  pylori ở  các  bệnh  nhân  BTNDDTQ, 
đặc biệt là khi dự đoán sẽ cần phải điều trị bằng 
thuốc ức chế bơm proton lâu dài. 
KẾT LUẬN 
Tỉ  lệ VTQTN  ở  bệnh  nhân  có  triệu  chứng 
tiêu hóa  trên chưa  từng được điều  trị  là 10,9%, 
trong  đó  có  1%  kết  hợp  với  loét  dạ  dày  –  tá 
tràng. Tất cả các trường VTQTN đều ở mức độ 
nhẹ. Có mối liên quan nghịch có ý nghĩa thống 
kê giữa nhiễm H. pylori và VTQTN. 
Lời cám ơn: Chúng tôi xin cám ơn sự hỗ trợ của Bệnh Viện 
Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh và công ty Astra Zeneca 
Việt Nam để hoàn thành bài báo này.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chung  SJ,  Lim  SH,  Choi  J,  et  al  (2011).  Helicobacter  pylori 
Serology Inversely Correlated With the Risk and Severity of 
Reflux Esophagitis  in Helicobacter pylori Endemic Area: A 
Matched  Case‐Control  Study  of  5,616  Health  Check‐Up 
Koreans. J Neurogastroenterol Motil;17(3):267. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tiêu Hóa 583
2. Ho KY, Chan YH, Kang JY (2005). Increasing trend of reflux 
esophagitis  and  decreasing  trend  of  Helicobacter  pylori 
infection in patients from a multiethnic Asian country. Am J 
Gastroenterol; 100: 1923–8. 
3. Laine L, et al (1996), Prospective comparison of commercially 
available  rapid urease  tests  for  the diagnosis of Helicobacter 
pylori, Gastrointest Endosc; 44:523‐6.  
4. Nguyen TL, Uchida T, Tsukamoto Y, et al (2010). Helicobacter 
pylori infection  and  gastroduodenal  diseases  in  Vietnam:  a 
cross‐sectional,  hospital‐based  study.  BMC 
Gastroenterology, 10:114 
5. Malfertheiner  P, Megraud  F, OʹMorain  CA,  et  al  (2012). 
Management of Helicobacter pylori  infection‐‐the Maastricht 
IV/ Florence Consensus Report. Gut.;61(5):646‐64. 
6. Nguyễn Duy Thắng (2010). Chẩn đoán và điều trị trào ngược 
dạ dày –  thực quản  (GERD). Y Học Thực Hành; 714: 111 – 
113. 
7. Nishikawa K, et al  (2000), A prospective evaluation of new 
rapid urease  tests before  and  after  eradication  treatment  of 
Helicobacter pylori,  in comparison with histology, culture and 
13C‐urea breath test, Gastrointest Endosc; 51:164‐8.  
8. Peura DA  (2000). The problem of Helicobacter pylori‐negative 
idiopathic  ulcer  disease. Baillieres  Best  Pract  Res  Clin 
Gastroenterol; 14: 109–17 
9. Phạm  Hoàng  Phiệt,  Nguyễn  Đình  Hối,  Trần  Kiều  Miên, 
Trương Bá Trung (1996). Nhiễm Helicobacter pylori trong bệnh 
lý viêm loét dạ dày‐tá tràng. Nội khoa; 2: 16 – 20. 
10. Quach DT (2006). Optimal Gastric Biopsy Site for Helicobacter 
pylori diagnosis by using Rapid Urease Test, Helicobacter; 11 
(Suppl. 2): 38. 
11. Quach  TD,  Tran  KM  (2007).  Endoscopic  esophagitis  in 
Vietnamese patients with dyspepsia  symptoms: prevalence, 
spectrum and symptoms. J Gastroenterol Hepatol; (22): A138. 
12. Quách Trọng Đức, Hồ Xuân Linh  (2012). Giá  trị của bộ câu 
hỏi GERDQ trong chẩn đoán các trường hợp bệnh trào ngược 
dạ dày – thực quản có hội chứng thực quản. Y Học TP Hồ Chí 
Minh, phụ bản của Tập 16, chuyên đề Nội Khoa I: 15 – 22. 
13. Quách Trọng Đức, Trần Kiều Miên (2005). Viêm trào ngược 
dạ dày – thực quản trên nội soi ở bệnh nhân Việt Nam có biểu 
hiện dyspepsia: tần suất, đặc điểm lâm sàng và nội soi. Y Học 
TP Hồ Chí Minh; 9 (phụ bản của số 1): 35 – 39. 
14. Shirota T, Kusano M, Kawamura O, et al (1999). Helicobacter 
pylori  infection correlates with severity of reflux esophagitis: 
with manometry findings. J Gastroenterol; 34(5): 553. 
15. Sollano JD, Wong SN, Andal‐Gamutan T, et al (2007). Erosive 
esophagitis  in  the  Philippines:  a  comparison  between  two 
time periods. J Gastroenterol Hepatol; 22: 1650–5. 
16. Tạ Long  (2005). Dịch  tễ học, chẩn đoán và xử  trí bệnh  trào 
ngược dạ dày –  thực quản  (GERD). Đặc San Tiêu Hóa Việt 
Nam; số 3: 5 ‐14. 
17. Vaezi MF,  Falk GW,  Peek  RM,  et  al  (2000). CagA‐positive 
strains  of  Helicobacter  pylori  may  protect  against  Barrettʹs 
esophagus. Am J Gastroenterol; 95(9): 2206. 
18. Vicari JJ, Peek RM, Falk GW, et al (1998). The seroprevalence 
of cagA‐positive Helicobacter pylori strains  in the spectrum of 
gastroesophageal reflux disease. Gastroenterology; 115(1): 50. 
19. Võ Hồng Minh Công (2011). Khảo sát các yếu tố nguy cơ của 
viêm thực quản trào ngược. Y Học TP Hồ Chí Minh (chuyên 
đề  hội  nghị Khoa  học Kỹ  thuật  BV Nhân Dân Gia  Định); 
15(4): 18 – 22. 
20. Wu JC, Chan FK, Ching JY, et al (2004). Effect of Helicobacter 
pylori  eradication on  treatment of gastro‐oesophageal  reflux 
disease: a double blind, placebo controlled, randomised trial. 
Gut; 53(2):174‐9. 
21. Wu  JC  (2008).  Gastroesophageal  reflux  disease:  An  Asian 
perspective. J Gastroenterol Hepatol; 23 (12): 1785–1793 
Ngày nhận bài báo:       01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:   30/11/2013 
Ngày bài báo được đăng:     05/01/2014