Ngân hàng trung ương: một viễn cảnh toàn cầu

Trong tất cả các ngân hàng trung ương trên thế giới, Cục Dự Trữ Liên Bang có thể có cấu trúc khác thường. Để hiểu tại sao cấu trúc này phát sinh, chúng ta phải trở lại trước năm 1913, khi Cục Dự Trữ Liên Bang đã được tạo ra.

Trước thế kỉ 20, một đặc điểm chính của nền chính trị Mỹ là sự lo sợ của quyền lực tập trung, được thể hiện trong việc kiểm tra và cân bằng của Hiến pháp và giữ gìn quyền của bang. Mối lo sợ về quyền lực tập trung là một lí do trong việc đề phòng của người Mĩ để thành lập một ngân hàng trung ương. Một nguồn khác là sự mất lòng tin truyền thống của Mỹ về lợi ích tiền bạc, những biểu tượng nổi bật nhất trong số đó là một ngân hàng trung ương. Thái độ thù địch của cộng đồng người Mỹ đến sự tồn tại của một ngân hàng trung ương dẫn đến sự sụp đổ của hai thử nghiệm đầu tiên trong ngành ngân hàng trung ương, có chức năng để giám sát hệ thống ngân hàng: Ngân hàng đầu tiên của Hoa Kỳ đã bị giải tán vào năm 1811, và các đặc quyền quốc gia của ngân hàng thứ hai của Hoa Kỳ hết hạn vào năm 1836 sau khi việc gia hạn được phủ quyết trong năm 1832 do Tổng thống Andrew Jackson.

Viếc chấm dứt đặc quyền quốc gia của ngân hàng thứ hai vào năm 1836 đã tạo ra một vấn đề nghiêm trọng đối với thị trường tài chính Mỹ, vì không có người cho vay như phương kế cuối cùng mà có thể cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng ngân hàng. Do đó, trong thế kỷ XIX và XX, khủng hoảng ngân hàng trên toàn quốc đã trở thành một sự kiện thường xuyên, xảy ra mỗi hai mươi năm hoặc lâu hơn, mà đỉnh cao là cuộc khủng hoảng năm 1907. Cuộc khủng hoảng năm 1907 dẫn đến kết quả sụp đổ ngân hàng trên diện rộng và gây thiệt hại đáng kể cho người gửi tiền, vì vậy công chúng cuối cùng đã được thuyết phục rằng một ngân hàng trung ương là cần thiết để ngăn ngừa những cuộc khủng hoảng trong tương lai.

 Sự thù địch của công chúng Mỹ đối với các ngân hàng và quyền lực tập trung tạo ra sự phản đối lớn trong việc thành lập một ngân hàng trung ương duy nhất như Ngân hàng Anh. Sự sợ hãi quá khích rằng nhóm tư bản tiền tệ trên Wall Street (bao gồm cả các tập đoàn lớn và các ngân hàng) sẽ có thể thao túng cơ quan đó để giành quyền kiểm soát nền kinh tế và hoạt động liên bang của ngân hàng trung ương có thể dẫn đến sự can thiệp quá nhiều của chính phủ vào công việc của các ngân hàng tư nhân. Bất đồng nghiêm trọng trong việc phân định các ngân hàng trung ương phải là một ngân hàng tư nhân hay là một cơ quan chính phủ. Bởi vì những cuộc tranh luận nóng bỏng về những vấn đề này, một thỏa hiệp đã được lập ra. Trong truyền thống vĩ đại của người Mỹ, Quốc hội đã viết và xây dựng hệ thống kiểm tra và cân đối vào Luật Dự trữ Liên bang năm 1913, trong đó tạo ra một Hệ thống Dự trữ Liên bang với mười hai ngân hàng Dự trữ Liên bang khu vực.

 

docx33 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 721 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Ngân hàng trung ương: một viễn cảnh toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bởi sự tự do về giá cả, một sự thâm hụt cán cân thanh toán và sự mất giá của đồng tiền ở những quốc gia này. Vì thế, điều đó đỏi hỏi cấp bách sự xuất hiện của ngân hàng trung ương, bằng việc tách từ từ ngân hàng bình thường thành ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại, cũng như cung cấp một mức độ về sự độc lập cho sự tồn tại của những ngân hàng này. Những đòi hỏi sự cải cách từ ngân hàng trung ương bởi vì để có thể nâng cấp triệt để những công cụ và mục tiêu cho sự độc lập của những thay đổi mới này. Sự độc lập của các ngân hàng trung ương ở các nước đông âu và các nước mới thành lập liên quan đến Liên Xô đã không có đẩy đủ các chức năng. Cùng với sự gia tăng, nâng cấp hệ thống pháp luật, chết tài ở các nền kinh tế có sự chuyển đổi, các ngân hàng trung ương đã có thêm các công cụ để đạt được những thành công trong việc giải quyết lạm phát và giám sát các ngân hàng thương mại. Các quốc gia có ngân hàng trung ương độc lập như Czech, bungarian, Hungarian đã thực hiện thành công việc kiểm soát lạm phát. Ngân hàng trung ương trong việc phát triền đất nước và các nền kinh tế mới nổi. Phát triển quốc gia ở những nước có nền kinh tế nhỏ và vừa. Trong khi những quốc gia này chiếm đến 80 % dân số trên toàn thế giới thì chỉ có khoảng 20 % tổng lượng GDP trên toàn thế giới. Mặt khác, những nền kinh tế mới nổi là những quốc gia đang phát triển và đang chuyển đổi nền kinh tế đang bắt đầu tham gia vào những cải cách kinh tế để đạt được những thành tích mới trong kinh tế, những hiệu quả từ việc cải cách thị trường vốn và trao đổi ngoại tệ. Vì vậy các quốc gia dễ dàng thu hút đầu tư nước ngoài về cả thị trường tái chính cũng như các nhóm ngành dịch vụ và sản xuất công nghiệp. Thậm chí những điều khoản này được sử dụng một cách lỏng lẻo, bao gồm các nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ, Trung Quốc đến các quốc gia Mĩ La Tinh , châu Phi , Trung Đông và châu Á. Rất nhiều các quốc gia trong đó là các quốc gia mới áp dụng hình thức ngân hàng Trung Ương. Mức độ độc lập cảu các ngân hàng trung ương liên quan mật thiết tới mức độ phát triển của khu vực tài chính và các bộ máy chính trị. Một rào cản lớn là làm cho tính độc lập của các ngân hàng trung ương ở một số quốc gia hoạt động không hiệu quả là khả năng sử dụng vốn thấp và không có khả năng tạo ra doanh thu. Trong trường hợp này, ngân hàng trung ương ở Costa Rica là một ví dụ điển hình, việc thiếu những nguồn lực cần thiết để cung cấp cho nó cùng với sự thiếu thực tế của chính sách tiền tệ. MMotj vài ví dụ khác là các nền kinh tế mới nổi phải đối mặt với những vế đề giống nhau của sự thiếu vốn là ngân hàng trung ương của Indonesia , nơi mà xảy ra việc thiếu vốn ở đầu thế kỉ này và vì vậy nó không thể mở rộng hỗ trợ tín dụng cho các ngân hàng thương mại yếu kém . Vì lý do này, khi các ngân hàng trung ương chịu tác động bởi các điều kiện tài chính không ổn định ảnh hưởng xấu đến việc điều hành chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương buộc phải tái cơ cấu vốn ngân hàng trung ương. Để đảm bảo sự chủ động và độc lập của ngân hàng trung ương, nhiều chính phủ của các quốc gia đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi bắt đầu đều đặn nâng cao vốn trong ngân hàng trung ương. Trong khi đó, ngân hàng trung ương của các quốc gia GCC (Hội đồng hợp tác các nước Ả Rập vùng Vịnh) đầy đủ vốn nhưng mức độ độc lập hạn chế hơn. Điều này thúc đẩy họ cố gắng chuyển sang dạng Ngân hàng TW đa quốc gia để đảm bảo tính độc lập khỏi sự kiểm soát của chính phủ. Một trong số các ngân hàng TW độc lập nhất được tự do thực hiện chinh sách tiền tệ ở châu Phi là Reserve Bank của Châu phi và NHTW cùa Ai Cập, những NH này có mức độ độc lập cao từ áp lực chính trị. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các NHTW này không biết gì về chính sách vĩ mô quốc gia. Ngược lại, trong nhiều trường hợp NHTW hoạt động trong sự phối hợp với các định chế tài chính của chính phủ, đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng. NH của Trung Quốc (PBC) PBC thành lập tháng 12, 1948, là một ví dụ về một NHTW tương đối mới tại các quốc gia mới nổi. Hoạt động như ngân hàng một cấp (mono-bank) duy nhất của TQ, đảm nhận cả vai trò NH thương mại và NH TW. Đây là một mô hình ngân hàng của chế độ chủ nghĩa xã hội, khi mà các NH tư nhân bị cấm hoạt động trong hệ thống kinh tế này. Chỉ đến 1980 chính phủ TQ phân chia hoạt động của NH thương mai thành 4 NH nhà nước. 1985, PBC hợp pháp bắt đầu vai trò của nó như là một NHTW đầy đủ với trụ sở tại Bejing và 9 trụ sở địa phương khác. Kể từ đó, Việc cải cách dần dần làm hoạt động PBC vượt ra ngoài lĩnh vực ngân hàng và được quyền thực hiện chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, PBC được yêu cầu báo cáo các quyết định của mình, thậm chí trước khi thực hiện với chính phủ về CS tiền tệ, khối lượng cung tiền, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Vì vậy, mức độ cao trong việc tham gia của CP trong hoạt động NH làm hạn chế sự độc lập PBC khi so sánh THTW của các quốc gia công nghiệp. Một vấn đề nghiêm trọng vốn có của hệ thống NH TQ là danh mục lớn nợ xấu, từ 700 tỷ $ năm 2007. Buộc PBC phải bảo lãnh cho NHNN. Làm thế nào TQ xử lý các NH ở Hồng Kong. 1997, UK trao trả HK cho TQ. Tuy nhiên, HK vẫn tự trị và độc lập với TQ. TQ chỉ thực hiện vai trò quốc phòng và ngoại giao trên danh nghĩa TQ. Vì thế, HK vẫn tự do thương mại duy trì đồng Dollar HK.vì vậy PBC ko vai trò trong ngân hàng tại HK. HKMA là NHTW của HK, thành lập tháng 4,1993. Có 4 nhiệm vụ chính: điều tiết, giám sát NH lưu ký và duy trì sự ổn định của Dollar HK : 7.8 $ HK=1$ Mỹ, duy trì dự trữ chính thức và giám sát cơ sở hạ tầng tài chính. Tuy nhiên, các nhà chức trách tiền tệ HK chỉ phát hàng tiền giấy 10 dollar và ủy quyền cho 3 NH thương mại, NH HK và Shanghai, Nh Standard Charter (HK), bank of china (HK) để phát hàng các giấy bạc khác ở HK. So sánh với PBC, HKMA còn xa trong độc lập và khả năng duy trì sức khỏe NH. NHTW Đa quốc gia ở các nước đang phát triển ECB ko phải là NHTW đa quốc gia trên thế giới nhưng một số quốc gia đang phát triển thành lập NHTW đa quốc gia để tăng cường hợp tác kinh tế với các quốc gia láng giềng. Một lý do khác là thiếu ngân sách và thẩm định sự cần thiết để thành lập một tổ chức quản lý và giám sát phức tạp. The eastern caribbean central bank (ECCB) gồm 8 quốc gia thành viên, trong đó 6 nước là quốc gia độc lập, 2 là 1 lãnh thổ của Anh. ECCB thành lập 10/1/1983 bao gồm Antigua và Barbuda, Commonwealth của Dominica, Grenada, Monsterrat.....tất cả các quốc gia này đều nhỏ và dễ bị tổn thương vì vậy cần một sự đoàn kết để hoàn thành việc phát triển kinh tế. Một cách tương tự tại NHTW châu Âu, chủ tịch được bầu trên cơ sở luân phiên và Hội Đồng tiền tệ chịu trách nhiệm thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo sự ổn định của đồng tiền chung, EC Dollar. Tuy nhiên ko giống ECB không quốc gia nào có NHTW riêng. Xu hướng tương tự ở châu Phi, nơi hầu hết các nước có NHTW, chấp nhận cho 2 khu vực có NHTW đa quốc gia. Banque.......hoặc ....... chấp nhận 8 quốc gia tây phi sử dụng đồng franc CFA như đồng tiền thông dụn của họ. tương tự, 6 quốc gia trung phi là thành viên của Banque. Hoặc NHTW Trung Phi, sử dụng đồng franc CFA như đồng tiền pháp định của họ. CẢI CÁCH NHTW Ở NAM MỸ Trong nhiều quốc gia Mỹ Latin NHTW được thấy trong khủng hoảng , dẫn dắt khủng hoảng ngân hàng tái phát. Thập niên 1980, các quốc gia Mỹ Latin ở trong 1 tình trạng nghiêm trọng, lạm phát 3, 4 con số được báo cáo từ những năm tám mươi của thế kỷ trước. vì lý do này, chính phủ tham gia việc cải cách NHTW, Chile là người đi tiên phong, 1989 NHTW của Chile được nhiều tự do hơn đổi lại phải nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm. để giảm tỷ lệ lạm phát, NHTW ở Braxin, Chile, Colombia, Mexico, Peru chấp nhận neo danh nghĩa bằng cách đưa ra một tỷ lệ lạm phát mục tiêu. Hơn nữa, kể từ thập niên 90, hầu hết quốc gia Nam Mỹ bắt đầu chỉ định 1 NHTW riêng từ danh sách bầu cử và cấp quyền cho NH này thực hiện CS tiền tệ mà ko cần sự can thiệp của chính phủ. Đổi lại, NHTW phải chịu trách nhiệm đạt được tỷ lệ lạm phát mục tiêu hơn là tập trung vào phát triển kinh tế. LIÊN MINH TIỀN TỆ Ở CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN Cuối cùng, một vài quốc gia nghèo và nhỏ đơn phương chấp nhận tiền tệ của các quốc gia lớn hơn. Ví dụ, Panama, Salvador, Ecuador, và một vài quốc gia nhỏ ở Caribbean sử dụng Đổng Dollar Mỹ, từ đó họ ko có đồng nội tệ. ví dụ, Ecuador bỏ đi đồng tiền quốc gia, Đồng Sucre, năm 2000 và chấp nhận USD là tiền tệ chính thức. Nó dẫn đến tỷ giá hối đoái của Sucre giảm từ 25 surce 1 USD năm 1980 đến 25,000 năm 2000. trong trường hợp này, NHTW quốc gia ko thực hiện CS tiền tệ và mất đi vai trò giám sát NH ở đất nước. Tương tự, các quốc gia châu Phi Swaziland và Lesotho sử dụng đồng Rand Nam Phi như đồng tiền hợp pháp. XU HƯỚNG ĐỘC LẬP HƠN TRONG LĨNH VỰC NH Như khảo sát của chúng tôi về cấu trúc và tính độc lập của hầu hết NHTW chỉ ra rằng, trong những năm gần đây, chúng ta thấy xu hướng đáng chú ý đó là nâng cao tính độc lập. trước đây Cục dự trữ liên bang Mỹ tính độc lập cao hơn hầu hết các NHTW khác, ngoại trừ Đức và Switzerland. Ngày nay khi khi NHTW châu Âu thành lập độc lập hơn Fed, và sự độc lập lớn hơn này cho phép NHTW như NH Anh và NH Nhật có lợi thế hơn khi so sáng với Fed, cũng như các NHTW khác như New Zealand, Sweden và khu vực euro. Hầu hết các lý thuyết và thực tiễn cho rằng sự độc lập hơn ở NHTW tạo ra CS tiền tệ tốt hơn, vì vậy cần thúc đẩy xu hướng này. KẾT LUẬN Fed thành lập 1913 nhằm giảm bớt tần số của cơn hoảng loạn NH. Bởi vỉ sự chống đối công khai đến NHTW và tập trung quyền lực, Fed thành lập nhằm kiểm tra và cân bằng sự phân tán quyền lực. Cấu trúc Fed bao gồm 12 cục dữ trữ khu vực, với 2500 NH thương mại thành viên, Thống đốc Fed, FOMC và Federal Advisory Council. Mặc dù trên danh nghĩa Fed xuất hiện như phi tập trung, nhưng thực ra nó hoạt động như một NHTW thống nhất được kiểm soát bởi thống đốc . fed thì tự do hơn các cơ quan chính phủ khác nhưng nó vẫn chịu áp lực chính trị bởi vì trên pháp lý cấu trúc của Fed do quốc hội lập nên và có thể thay đổi bất cứ lúc nào\ sự độc lập của Fed còn thể hiện ở chỗ giảm bớt tính độc lập của Fed chịu áp lực chính trị nhiều hơn làm sai lệch lạm phát đến chính sách tiền tệ. Một Fed độc lập đủ có thể có khả năng có tầm nhìn dài và ko phải chịu trách nhiệm đến những vần đề ngắn hạn dẫn đến CS tiền tệ mở rộng hơn và một chu kỳ kinh tế chính trị. Tiêu cực của sự độc lập của Fed là nó không dân chủ trong CS tiền tệ (rất quan trọng đối với cộng đồng) được kiểm soát bởi một tầng lớp cao cấp mà ko để ý tới cộng đồng. Sự độc lập của Fed cũng gây ra khó khăn khi phối hợp giữa CS tiền tệ và tài khóa. lý thuyết về hành vi quan liêu nói rằng 1 nhân tố điều hành hành vi NHTW sẽ dần đến sự gia tăng trong quyền lực và uy tín. Nó giải thích nhiều động thái của NHTW mặc dù NHTW là hoạt động vì lợi ích cộng đồng. hệ thống NHTW châu Âu tương tự như Fed, với mỗi quốc gia có NHTW riêng. Hội đồng NHTW châu Âu đặt tại Frankfurt, Đức. Hội đồng quản trị thực hiện các chính sách tiền tệ. Eurosystem được thành lập theo Maastricht, độc lập hơn Fed bởi vì điều lệ của nó không bị thay đổi bởi pháp luật. thật ra, nó là NHTW độc lập nhất thế giới. một xu hướng đáng chú ý là nâng cao tính độc lập của NHTW. Như NH Anh và Nhật cũng như các Nh khác ở New zeland và Thủy Điển . lý thuyết và thực tiễn cho thấy NHTW càng độc lập thì CS tiền tệ càng tốt hơn PHẦN ĐỌC THÊM Phong cách của Bernanke khác với Greenspan như thế nào? Mỗi một vị chủ tịch Cục dự trữ Liên Bang có một phong cách lãnh đạo khác nhau. Điều đó đã ảnh hưởng đến việc quyết định chính sách nào được tiến hành tại Fed. Có rất nhiều sự thảo luận xoay quanh vấn đề sự khác nhau nào giữa Chủ tịch cục dự trữ Liên bang hiện tại, Ben Bernanker và Cựu Chủ tịch cục dự trữ Liên bang, Alan Greenspan. Alan Greenspan lãnh đạo Fed không giống với bất kì vị Chủ tịch tiền nhiệm nào của Fed. Bối cảnh khác xa so với Bernanke-người đã dành hết sự nghiệp của mình trong giới học thuật tại Đại học Princeton. Greenspan, học trò của Ayn Rand, là một người ủng hộ mạnh mẽ cho Tự do kinh tế của nghĩa tư bản và đứng đầu một công ty tư vấn kinh tế rất thành công. Greenspan chưa bao giờ được biết đến như một nhà lý luận kinh tế, nhưng đúng hơn là nổi tiếng cho sự đắm mình trong các dữ liệu theo nghĩa đen. Ông ta được biết đến với việc sử dụng phòng tắm để bắt đầu một ngày và tập trung vào hàng loạt dữ liệu mơ hồ để đi đến dự báo của mình. Vì vậy, Greenspan hầu như không dựa vào nhân viên dự báo để đưa ra quyết định chính sách. Một ví dụ cụ thể diễn ra vào 1997, khi nhân viên sự báo về sự tăng cao lạm phát và yêu cầu chính sách thắt chặt tiền tệ. Nhưng Greenspan chưa bao giờ tin tưởng điều này và thuyết phục FOMC không thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Greenspan chứng minh mình đúng và được giới truyền thông gán cho cái tên nhạc trưởng đại tài”. Bernanke, năm 2002 là thành viên của ban thống đốc Fed, từng giữ chức Chủ tịch hội đồng cố vấn kinh tế  năm 2005 và quay trở lại Fed với chức danh chủ tịch vào năm 2006. Trước đó, Bernanke là chuyên gia kinh tế của trường Đại học Princeton. Vì Bernanke không là một chuyên gia dự đoán kinh tế nên Bộ phận dự đoán vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc ra quyết định của FOMC. Khác với Greenpan, Bernanke là một chuyên gia kinh tế nổi tiếng nên ông ta dựa vào phân tích để đưa ra quyết định. Kết quả là một sử dụng lớn hơn nhiều của các mô hình mô phỏng để hướng dẫn thảo luận chính sách. Phong cách thảo luận cũng khác nhau với từng vị chủ tịch khác nhau. Greenspan thực hiện điều khiển chuyên sâu trong các cuộc thảo luận FOMC . Trong thời kỳ Greenspan, các cuộc thảo luận đã chính thức, với mỗi người tham gia nói sau do được đưa vào một danh sách do thư ký của FOMC ghi nhận lại. Dưới thời Bernanke đã khuyến khích cái gọi là can thiệp bằng hai tay. Khi người tham gia muốn nêu ý kiến, họ có thể lần lượt đặt một câu hỏi hoặc tạo một điểm về một cái gì đó mà một trong những người tham gia khác vừa nêu ra, họ nâng cao hai tay và sau khi được sự cho phép của Chủ tịch bernenke, họ có thể trình bày quan điểm của mình. Tài chính Hồi giáo: Giải pháp tahy đổi đức tin đến ổn đinh tài chính: Vì nền kinh tế toàn cầu đã bị tác động bởi sự thất bại tài chính, điều mà đã thoát ra khỏi những sự kiểm soát thông thường, những chuyên gia tài chính và các nhà nghiên cứu kinh tế đã bắt đầu nghĩ đến việc sử dụng các giải pháp thay đổi đức tin để làm giảm những hoạt động rủi ro không tốt. Mô hình kinh tế hồi giáo, với nguồn gốc về văn hóa và tôn giáo khác biệt, ngày nay có thể được tin tưởng trong số những giải pháp thay thế đầy hứa hẹn. Cái chính là chuối nguyên lý kinh tế của hệ thống Hồi giáo hữu ích như là 1 phương pháp thay thế cho sự đặc quyền tích lũy mà có thể nhìn thấy được nhiều hơn trong những mô hình truyền thống, trong khi vẫn duy trì những nguồn gốc cơ bản trong kĩ năng bắt đầu. Người Hồi Giáo nghĩ răng lợi nhuận có thể là động cơ phát triển hoặc lafnguyeen tố của sự bất công xã hội nếu không kiểm soát được vấn đề đạo đức. Sự hòa hợp giữa vật chất và tinh thần phải rõ ràng trong đạo hồi, vì thế tất cả hoạt động kinh tế đều được xem là hoạt động của sự tôn trọng. Kết quả là mô hình kinh tế Hồi giáo có nguồn gốc sâu đậm từ niềm tin của sự công bằng trong phân bồ giàu nghèo, khuyến khích nền kinh tế phát triển và lớn lên, cấm đoán sự lợi dụng nhu cầu và tránh rủi ro liên tục. Trong khi những nhân tố đức tin của nền kinh tế hồi giáo chịu trách nhiệm với quyền công dân bằng cách ban hành hệ thống thuế mà luật pháp cần thông qua những quỹ từ thiện, hoặc gọi là JAKAT, mô hình tài chính hồi giáo phụ thuộc vào 2 yếu tố cấp thiết: không tính lãi và những phương thức đầu tư tránh rủi ro. Khái niệm Ngân hàng hồi giáo lien quan đến 1 hệ thống hoạt động ngân hàng mà có cùng nguyên lý với những quy định hồi giáo, được biết đến là Sharia. Pháp luật Hồi giáo nghiêm cấm cho vay nặng lãi, gọi là riba, hoặc bất kì hình thức thu trả lãi nào. Vì sự cấm đoán về lãi là “sire qua non” của hệ thống ngân hàng hồi giáo, những ngân hàng này đã phát triển một lượng nhỏ cho vay dựa trên sự chia sẻ lợi nhuận và thua lỗ. những công cụ phổ biến nhất của ngân hàng hồi giáo là Murdarbah, Mursharkah và murabaha. Với Mudarbah, người vay hoàn trả khoản lãi vay cho ngân hàng với sự chia sẻ lợi nhuận và thua lỗ được thỏa thuận trước đó. Musharaka là một hợp đồng giữa ngân hàng và khách hàng, nơi mà cả 2 bên đồng ý kết hợp nguồn tài chính của họ cho sự hình thành và quản lý của 1 doanh nghiệp hay 1 dự án kinh doanh. Murabaha là một hình thức tài chính dựa trên tài sản của hồi giáo và có 1 điều khoản cố định và lợi nhuận được tính toán trước; ngân hàng mua 1 tài sản nhất định và bán lại cho khách hàng với giá mua cộng lợi nhuận tính trên lãi suất thỏa hiệp tại thời điểm kí hợp đồng. Trái phiếu tự nguyện Sharia, gọi là Sukuk, và cổ phiếu hồi giáo đang tăng trưởng với tỉ lệ chưa từng thấy với giái trị đạt $ 3000 tỷ như năm 2011. Vì Sharia cấm maysir và gharar, điều mà bao gồm một chuỗi rủi ro và sự giúp đỡ không chắc chắn và bất hợp pháp. Những công cụ quyền chọn truyền thống bị cấm ở Hồi Giáo. Câu hỏi tổng hợp Trả lời câu hỏi 4/ Những cách có thể để các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực (regional) ảnh hưởng đến việc thực hiện các chính sách tiền tệ. Trong hội đồng gồm 12 thành viên có thể bỏ phiếu thì có 5 thành viên là thống đốc ngân hàng quận (được chọn ra) để phục vụ trong hội đồng tư vấn liên bang, để tư vấn, cung cấp thông tin để Hội đồng thống đốc tiến hành các chính sách tiền tệ. - Hội đồng cũng đặt ra yêu cầu dự trữ (trong giới hạn cho phép của pháp luật) -Nó có hiệu quả kiểm soát tỷ lệ chiết khấu của quá trình "cân nhắc và ra quyết định", theo đó chấp thuận hoặc không chấp thuận lãi suất chiết khấu "được thiết lập" bởi các ngân hàng dự trữ liên bang. 3/ “Hệ thống (cục) dự trữ liên bang giống như hiến pháp Hoa Kỳ ở chỗ nó được thiết kế với nhiều kiểm tra và cân bằng” thảo luận? (trả lời theo cảm tính thôi, Đặc điểm hiến pháp Hoa Kỳ???) Cấu trúc của hệ thống dự trữ liên bang • Những người làm Đạo luật Dự trữ Liên bang muốn mở rộng điện dọc theo các đường khu vực, giữa các khu vực tư nhân và chính phủ, và các ngân hàng, doanh nhân, và công chúng • Điều này phổ biến ban đầu của quyền lực đã dẫn đến sự phát triển của hệ thống dự trữ liên bang bao gồm các đối tượng sau: - Các ngân hàng dự trữ liên bang, Hội đồng Thống đốc của Hệ thống Dự trữ Liên bang, Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC), Hội đồng tư vấn liên bang, và khoảng 2.900 ngân hàng thương mại thành viên. Ngân hàng dự trữ liên bang • Các ngân hàng thành viên bầu sáu giám đốc cho từng quận; thêm ba được chỉ định bởi Hội đồng Thống đốc • Các ngân hàng thành viên bầu sáu giám đốc cho từng huyện; thêm ba được chỉ định bởi Hội đồng thống đốc - Được thiết kế để phản ánh tất cả các khu vực bầu cử của công chúng • Chín giám đốc bổ nhiệm chủ tịch của chủ ngân hàng chấp thuận của Hội đồng Thống đốc Nhiều thành phần tham gia, được chon lựa rõ ràng, đảm bảo tính công bằng độc lập. Câu 5: tại Fed, Ủy ban Thị trường Mở – FOMC là một tổ chức gồm có 7 Thống đốc trong Hội đồng quản trị của Ngân hàng Dự trữ Liên bang và 5 Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang. FOMC thường tổ chức cuộc họp định kỳ 8 lần/năm để thảo luận và đưa ra quyết định về xu hướng ngắn hạn đối với chính sách tiền tệ. Các thay đổi trong chính sách tiền tệ thường được thông báo trong cuộc họp báo ngay sau cuộc họp. Tại NHTW châu Âu,  Các quyết định liên quan tới chính sách tiền tệ, bao gồm quyết định mức lãi suất cơ bản, nằm trong tay Hội đồng thống đốc và Ban điều hành của ECB. Hội đồng thống đốc bao gồm sáu thành viên trong đó có Thống đốc và phó Thống đốc. Ban điều hành bao gồm các thành viên trong ban Giám đốc và Thống đốc của tất cả các NHTW của các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu. Theo thông lệ, bốn trong số  sáu thành viên Hội đồng thống đốc đều là đại diện của bốn NHTW lớn, bao g ồm NHTW Pháp, Đức, Italy và Tây Ban Nha. Các cuộc hội họp diễn ra hai lần mỗi tuần, nhưng chúng thường diễn ra một cách hình thức và không đi đến quyết định nào.Cuộc họp quyết định mức lãi su ất cơ bản diễn ra một lần mỗi tháng. Đây là một trong những sự kiện kinh tế quan trọng và thu hút sự chú ý theo dõi của tất cả các thành phần tham gia thị trường ngoại hối. Sau khi nó kết thúc, một cuộc họp báo sẽ được tổ chức, Thống đốc ECB khi đó sẽ giải thích cụ thể lý do cơ quan nàyđưa ra các quyết định về lãi suất, đồng thời dự báo tình hình chung cũng như các xu hướng của nền kinh tế các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. Câu 9: Công cụ đầu tiên mà quốc hội Hoa Kỳ sử dụng để thực hiện một vài quyền kiểm soát lên cục dự trữ liên bang là gì? 10. Trong những năm 1960 và 1970, Fed mất cac ngan hang thanh vien với tốc độ nhanh chóng. bang cach nao lý thuyết hành vi quan liêu có thể giải thích cho chiến dịch của Fed, đối với nhung quy dinh yêu cầu tất cả các ngân hàng thương mại trở thành thành viên? Fed da thành công trong chiến dịch này? Suy giảm số lượng các thành viên Cục Dự Trữ Liên Banglà một mối quan tâm lớn của Hội đồng Thống đốc; một lý do là nó làm giảm đi sự kiểm soát của Cục Dự Trữ Liên Bang trong việc cung cấp tiền bạc, gây khó khăn cho cục khi thực hiện chính sách tiền tệ. Chủ tịch Hội đồng Thống đốc liên tục kêu gọi dự luật mới yêu cầu tất cả các ngân hàng thương mại phải là thành viên của Cục Dự trữ Liên bang. Một kết quả của áp lực của Cục vào Quốc hội là một điều khoản trong và Đạo luật phi điều tiết và kiểm soát tiền tệnăm 1980: Tất cả các tổ chức lưu ký tuân thủ chung yêu cầu về các khoản tiền gửi tại Cục Dự trữ Liêng bang, vì vậy các ngân hàng thành viên và phi thành viên sẽ được bình đẳng về các yêu cầu dự trữ. Ngoài ra, tất cả các tổ chức lưu ký được phép truy cập đến các cơ sở dự trữ liên bang, chẳng hạn như các cửa sổ chiết khấu (thảo luận trong Chương 16) và Cục kiểm tra thanh toán bù trừ trên cơ sở bình đẳng. Những quy định này kết thúc sự suy giảm số lượng thành viên Fed và giảm sự phân biệt giữa các ngân hàng thành viên và các ngân hàng phi thành viên. 11. Giải thích tại sao mười một nuoc’ của EU đã quyết định không sử dụng đồng euro là đồng nội tệ của họ? Việc ngân hàng trung ương châu Âu ECB đảm nhiệm chức năng điều hành chính sách tiền tệ của cả khối sẽ làm các nước tham gia mất đi công cụ để điều tiết nền kinh tế và rất khó khăn cho các nước này mỗi khi kinh tế gặp khó khăn khủng hoảng. Do chua san sang (chua du dieu kien) Hoac do lựa chọn của nước đó. + một số dân chúng cảm thấy như một phần văn hoá của mình bị mất, + những chính sách của chính phủ về kinh tế và xã hội không còn được tự do, mà phải theo đường lối chung của Cộng Ðồng Tiền Tệ Âu Châu, + với những hậu quả như sự cạnh tranh sẽ mãnh liệt hơn, các xí nghiệp quốc gia có thể rời bỏ nơi sản xuất mắc mỏ và thiết lập ở những nước rẻ hơn, + viễn tượng thất nghiệp làm một phần dân chúng lo ngại. + Việc chuyển đổi sang đồng Euro làm giá tiêu dùng tăng cao cso thể dẫn tới lạm phát Nói chung nguyên tắc độc lập quốc gia bị đụng tới 12. Những khó khăn chính gặp phải của các ngân hàng trung ương mới được thành lập trong nền kinh tế chuyển đổi là gì?

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxbai_dich_chu_de_3_nhtw_mot_vien_canh_toan_cau_4127.docx