12 dược phẩm trong số được sử dụng nhiều

CHỐNG BÉO PHÌ :

Tên thuốc : Alli

Phòng bào chế : GSK

Được bán từ 2 năm nay.

Được bán dưới dạng thuốc viên 120 mg theo toa BS, dưới tên Xenical từ

mười năm nay bởi Phòng bào chế Roche, Alli đã được thương mãi hóa và

bán tự do vào tháng giêng bởi GlaxoSmithKline dưới dạng thuốc liều lượng

nhỏ hơn (60mg). Giấy phép đưa ra thị trường đã được phát ở mức châu Âu

và Pháp đã chống lại. Alli được chỉ định chống lại chứng béo phì và hoạt

chất của nó là Orlistat. Nó có đặc điểm làm giảm sự hấp thụ các chất mỡ qua

đường tiêu hóa.

Với việc rút ra khỏi thị trường rimonabant (Acomplia của Sanofi) vào tháng

mười 2008 và của Sibutral (sibutramine của hãng Abbott) vào tháng giêng

2010, Alli là thuốc còn lại trong chỉ định này. Nhữngtác dụng phụ của thuốc

đặc biệt khó chịu : phân như dầu, tiêu chảy đôi khi có máu. Và Alli không

được sử dụng trong trường hợp dụng thuốc kháng đông hay uống thuốc ngừa

thai. “Một tần số gia tăng những trường hợp gãy xương đã được quan sát lúc

một thử nghiệm lâm sàng nơi các thiếu niên”, tạp chí Prescrire đã báo cáo

như vậy trong số tháng ba năm 2009. Tạp chí cũng ghi nhận rằng “những

trường hợp hiếm hoi viêm tụy tạng và viêm gan đã được ghi nhận”.

Chính vì thế Alli được khuyên ngưng sử dụng trong trường hợp đau bụng

mãnh liệt. Prescrire tóm lượt Alli như sau “thường gây khó chịu và không

mang lại nhiệm màu”. Đúng là uống orlistrat trong 6 tháng, theo liều lượng 3

viên mỗi ngày, làm mất khoảng 3kg. Hiện nay thuốc trong tình trạng được

theo dõi ở châu Âu do độc tính trên gan của nó. Giới hữu trách y tế đang suy

xét lại lợi ích của thuốc so với những tác dụng phụ của nó.

pdf16 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1316 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu 12 dược phẩm trong số được sử dụng nhiều, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
12 DƯỢC PHẨM TRONG SỐ ĐƯỢC SỬ DỤNG NHIỀU CHỐNG BÉO PHÌ : Tên thuốc : Alli Phòng bào chế : GSK Được bán từ 2 năm nay. Được bán dưới dạng thuốc viên 120 mg theo toa BS, dưới tên Xenical từ mười năm nay bởi Phòng bào chế Roche, Alli đã được thương mãi hóa và bán tự do vào tháng giêng bởi GlaxoSmithKline dưới dạng thuốc liều lượng nhỏ hơn (60mg). Giấy phép đưa ra thị trường đã được phát ở mức châu Âu và Pháp đã chống lại. Alli được chỉ định chống lại chứng béo phì và hoạt chất của nó là Orlistat. Nó có đặc điểm làm giảm sự hấp thụ các chất mỡ qua đường tiêu hóa. Với việc rút ra khỏi thị trường rimonabant (Acomplia của Sanofi) vào tháng mười 2008 và của Sibutral (sibutramine của hãng Abbott) vào tháng giêng 2010, Alli là thuốc còn lại trong chỉ định này. Những tác dụng phụ của thuốc đặc biệt khó chịu : phân như dầu, tiêu chảy đôi khi có máu. Và Alli không được sử dụng trong trường hợp dụng thuốc kháng đông hay uống thuốc ngừa thai. “Một tần số gia tăng những trường hợp gãy xương đã được quan sát lúc một thử nghiệm lâm sàng nơi các thiếu niên”, tạp chí Prescrire đã báo cáo như vậy trong số tháng ba năm 2009. Tạp chí cũng ghi nhận rằng “những trường hợp hiếm hoi viêm tụy tạng và viêm gan đã được ghi nhận”. Chính vì thế Alli được khuyên ngưng sử dụng trong trường hợp đau bụng mãnh liệt. Prescrire tóm lượt Alli như sau “thường gây khó chịu và không mang lại nhiệm màu”. Đúng là uống orlistrat trong 6 tháng, theo liều lượng 3 viên mỗi ngày, làm mất khoảng 3kg. Hiện nay thuốc trong tình trạng được theo dõi ở châu Âu do độc tính trên gan của nó. Giới hữu trách y tế đang suy xét lại lợi ích của thuốc so với những tác dụng phụ của nó. CAI THUỐC LÁ Tên thuốc : Champix, Zyban Phòng bào chế : Pfizer, GSK Được bán từ 4 và 10 năm nay. Được thương mãi hóa ở Pháp từ tháng hai 2007, Champix (tartrate de varénicline) được kê đơn cho khoảng 300.000 người mỗi năm như là phương tiện hỗ trợ cho việc cai thuốc lá. Một sự theo dõi cảnh giác dược (pharmacovigilance) được tăng cường cua những trường hợp rối loạn tâm thần và những hành vi tự tử. Vào năm 2008, sau khi được đưa rất thị trường 14 tháng, 174 trường hợp tác dụng phụ nghiêm trọng đã được báo cáo, trong số đó 92 rối loạn tâm thần. Một bilan mới được dự kiến, và việc cứu xét gia hạn giấy phép cho lưu hành đang được tiến hành. Trên thị trường từ 2001 cho cùng chỉ định, Zyban (bupropion) càng ngày càng ít được kê đơn hơn. Vào năm 2010, khoảng 20.000 người đã được điều trị bởi loại thuốc này. Afssaps báo cáo một sự theo dõi “thường quy” của Zyban, sau khi xảy ra những trường hợp rối loạn tâm thần, trầm cảm và tự tử. Trên thực tế, các thuốc ưu tiên một để cai thuốc lá là những chất thay thế nicotine (substitut nicotinique), Champix và Zyban là những thuốc dùng ưu tiên hai. Điều hướng dẫn cho sự lựa chọn của chúng ta giữa ba thứ thuốc, đó là tỷ suất lợi ích/nguy cơ nơi một bệnh nhân xác định, BS Patrick Dupont, tabacologue (bệnh viện Paul-Brousse, Villejuif) đã xác nhận như vậy. Thí dụ ta biết rằng varénicline hiệu quả hơn bupropion, nhưng cách tác dụng của chúng, các chống chỉ định và các nguy cơ tiềm tàng là khác nhau.” Theo ông ta, trong tình trạng kiến thức hiện nay, khi một điều trị cần thiết, phải ưu tiên các chất thay thế nicotine hơn. “Khi điều đó không thể thực hiện, Champix và Zyban có thể được kê toa, nhưng dưới sự theo dõi, thầy thuốc chuyên khoa thuốc lá, chủ trương cảnh giác bệnh nhân về những nguy cơ khả dĩ, đã kết luận như vậy. BS Chast thì nghiêm khắc hơn : “Trong chừng mực ta có những thuốc có hiệu quả và được dung nạp tốt, tôi không thấy Champix sẽ đóng vai trò gì trong kho vũ khí điều trị.” BỆNH LOÃNG XƯƠNG SAU MÃN KINH Tên thuốc Protelos Phòng bào chế : Servier Được bán từ 5 năm nay. Đó là một loại thuốc của Servier, đã nêu lên nhiều nghi vấn. Được thương mãi hóa năm 2006, Protelos được kê đơn trong điều trị bệnh loãng xuống sau thời kỳ mãn kinh (ostéoporose post-ménauposique). Tạp chí Prescrire không mềm mỏng với renalate de strontium (hoạt chất của Protelos). “Trên thực tiễn, có quá nhiều ẩn số chung quanh những nguy cơ của strontium”, tạp chí này đã ghi nhận như vậy trong số tháng 7-8 năm 2005. Tờ báo viết thêm : “các nguy cơ không được biết và định lượng rõ” và kết luận rằng Protelos “không mang lại gì mới”. Hiện nay, một cuộc điều tra cảnh giác dược đang được tiến hành sau khi có báo động về nguy cơ của hội chứng tăng nhạy cảm thuốc (syndrome d’hypersensibilité), một phản ứng dị ứng có thể nghiêm trọng. Từ khi được thương mãi hóa, 16 trường hợp đã được báo cáo trong Liên Hiệp châu Âu, trong đó 13 trường hợp ở Pháp. Và trong hai trường hợp, những tác dụng phụ này đã dẫn đến tử vong của bệnh nhân. Hội chứng tăng nhạy cảm thuốc có thể gây nên thương tổn của một hay nhiều cơ quan, đặc biệt là gan và thận. Trong những trường hợp được báo cáo, các triệu chứng xuất hiện trong 3 đến 6 tuần sau khi bắt đầu điều trị, dưới dạng nổi ban da, thường kèm theo sốt, một sự gia tăng thể tích của các hạch với tăng bạch cầu và những tác dụng lên phổi, gan và thận. Trong hầu hết các trường hợp, tiến triển thuận lợi sau khi ngừng Protelos và sau khi cho corticostéroide. Tạp chí Prescrire do đó cho rằng khôn ngoan hơn là sử dụng biphosphonate, đã tỏ ra có hiệu quả và có những tác dụng phụ ít hơn. ĐIỀU TRỊ MỤN Tên thuốc : Minocycline Phòng bào chế : Tonipharm Được bán từ 28 năm Là kháng sinh thuộc họ tétracycline, minocycline được thương mãi hóa từ nhiều thập niên. Minocycline được kê đơn chủ yếu để điều trị những bệnh nhiễm trùng, nhất là phổi và sinh dục và trong bệnh mụn (acné). Những tác dụng phụ, tuy rất hiếm nhưng nghiêm trọng, đã được liệt kê bởi một điều tra cảnh giác dược : viêm gan, hội chứng tăng nhạy cảm (syndrome d’hypersensibilité), được gọi là Dress (Drug Rash Eosinophilia and Systemic Symptoms), các bệnh tự miễn dịch. Những tai biến này rõ rệt thường xảy ra hơn với minocycline so với những cycline khác. “Các thầy thuốc bệnh ngoài da được cảnh giác rõ về những tác dụng phụ nghiêm trọng của minocycline, xảy ra chủ yếu trên da sắc tố. Thuốc này không còn là điều trị ưu tiên một của bệnh mụn nữa”, GS Pierre Wolkenstein, cựu chủ tịch của Hiệp hội về bệnh học ngoài da của Pháp đã xác nhận như vậy. Một sự tái đánh giá dược phẩm này đang được tiến hành. Còn về isotrétinoine, một dẫn xuất của vitamine A, thuốc này dàng để điều trị bệnh mụn thể nặng. 4 générique đang được bán trên thị trường. Một sự theo dõi cảnh giác dược được tăng cường do các nguy cơ gây quái thai (risque tératogène) (dị dạng thai nhi khi thuốc được sử dụng trong lúc có thai) và những rối loạn tâm thần. Các trường hợp tự tử đã được ghi nhận. Isotrétinoine dùng bằng đường miệng là điều trị tốt nhất của bệnh mụn thể nàng. Các bệnh nhân sử dụng thuốc này rất được theo dõi trên bình diện y tế, GS Wolkenstein đã nhấn mạnh như vậy, đồng thời nhắc lại rằng bệnh mụn, nhất là thể nặng, có thể được kèm theo bởi chứng trầm cảm nhưng không có liên hệ gì với điều trị. Bilan cảnh giác dược phải được xét lại vào năm 2011, nhưng việc rút ra khỏi thị trường sẽ không được đặt ra, theo thầy thuốc chuyên khoa bệnh ngoài da. CÁC DỊ ỨNG MÙA (ALLERGIES SAISONNIERES) Tên thuốc : Primilan Hãng bào chế : Pierre Fabre Được bán từ 27 năm nay Primalan được dành để điều trị triệu chứng những biểu hiện dị ứng như viêm mũi, viêm kết mạc hay mày đay. Hoạt chất là méquitazine, một antihistaminique de classe H1. Đó là một dược phẩm cũ (giữa những năm 1980), chỉ hiện diện trên thị trường Pháp, ở đây thuốc rất được sử dụng, nhất là nơi trẻ em. Thuốc được cho dưới dạng viên và sirop, với liều lượng được thích ứng tùy theo tuổi. Có vài tác dụng phụ, như khả năng ngủ gà (somnolence), nhất là lúc bắt đầu điều trị, tùy theo tuổi của bệnh nhân, nhưng cũng có triệu chứng khô miệng, các rối loạn điều tiết, bí tiểu, bón, hồi hộp, co giật. Cũng có thể có vài phản ứng dị ứng hay một biểu hiện nhạy cảm ánh sáng (photosensibilisation). Thuốc này được bán với toa bác sĩ. Primalan đang được theo dõi tăng cường bởi hệ cảnh giác dược sau khi có những ghi nhận về vài trường hợp rối loạn nhịp tim. Các antihistaminique thuộc loại này được biết là đã gây nên loại vấn đề này (ví dụ Teldane, một loại thuốc đã được rút ra khỏi thị trường vào năm 1997). Những antihistaminique thuộc thế hệ cũ có nhiều phẫn ứng phụ hơn là những thuốc mới. có thể đáp ứng cùng những chức năng điều trị. CÁC RỐI LOẠN VỀ SỰ CHÚ Ý Tên thuốc : Ritaline Phòng bào chế : Novartis Pharma SA Được bán từ 16 năm nay. Thuốc này (hoạt chất là méthylphénidate) dành cho các trẻ em trên 6 tuổi. Thuốc này được chỉ định trong điều trị các rối loạn về sự chú ý và tình trạng tăng hoạt động (hyperactivité). Trong série américaine Desperate Housewives, một trong các nữ nhân vật chính trở nên phụ thuộc các viên thuốc Ritaline vốn được kê đơn cho trẻ em, một loại thuốc rất phổ biến bên kia Đại tây dương. Một công trình nghiên cứu được công bố trong Drug and Alcohol Dependence, năm 2006, cho thấy thuốc này đã được chuyển hướng chỉ định bởi 7 triệu người Mỹ trong mục đích tăng kích thích (se doper).Ở Pháp, Ritaline ít được kê đơn. Chính tính chất của loại thuốc này, amphétamine, tạo nên sự phụ thuộc. Ngoài sự nghiện ngập, sự quá liều của méthylphénidate có thể có những tác dụng lên hệ tim mạch. Chính vì vậy thuốc này được đặt dưới sự theo dõi tăng cường. Những khuyến nghị về sự sử dụng tốt loại thuốc này hiện đang được nghiên cứu. CHỐNG ĐAU ĐỚN Tên thuốc : Tramadol Phòng bào chế : Nhiều công ty sản xuất các générique Được bán từ hơn 10 năm nay. Tramadol là một thuốc cô có những đặc điểm giảm đau. Opioide này ngày nay hiện diện trong khoảng 40 loại thuốc ở Pháp, được thương mãi hóa bởi nhiều phòng bào chế và hiện diện dưới dạng générique. Nhưng tramadol được vài bệnh nhân lạm dụng trong bối cảnh sử dụng ma túy. Chính vì vậy, năm 2009, các người Thụy Điển đã thực hiện một nghiên cứu nhận dạng những tác dụng phụ. Kết quả có 104 các quan sát về sự phụ thuộc thuốc (dépendance) trên 550 bảng thông báo về những tác đúng phụ. Những vấn đề thường xảy ra nhất liên quan đến những hội chứng cai thuốc (syndrome de sevrage), những trường hợp lạm dụng (usage abusif) và những trường hợp gia tăng liều lượng. Đối với hơn một nửa bảng thông báo, các rối loạn là trầm trọng và một nửa các bệnh nhân bị phụ thuộc thuốc đã được nhập viện để cai tramadol. Ở Pháp một sự theo dõi đang được tiến hành vì lẽ thuốc này gây phụ thuộc. Sau cùng Prescrire (tháng giêng 2011) ghi nhận những tác dụng phụ loại co giật, hạ đường huyết và những tương tác thuốc (interaction médicamenteuse). Thật đáng ngạc nhiên khi tramadol được giới thiệu như là thuốc thay thế Di-Antalvic sắp được rút ra khỏi thị trường. SAU THỜI KỲ MÃN KINH Tên thuốc : Biphosphonates Phòng bào chế : nhiều Được bán từ 10 năm nay Trong một thời gian lâu, điều trị chứng mãn kinh đã phải nhờ đến các hormone. Mục tiêu là trước mắt chống lại những cơn bốc hỏa (bouffées de chaleur) và về lâu dài chống lại chứng loãng xương. Ở Hoa Kỳ, sau khi khám phá một nguy cơ gia tăng, nhất là ung thư vú và các bệnh tim, các toa thuốc đã bị chậm lại. Chính vì thế trong khung cảnh ngăn ngừa các gãy xương, những điều trị chống bệnh loãng xương bằng biphosphonates đã phát triển rộng rãi. Rất nhiều phụ nữ vào lúc mãn kinh sử dụng những thuốc này. Khoảng một chục loại thuốc khác nhau hiện có trên thị trường. Những thuốc này không phải là không có tác dụng phụ. Các trường hợp viêm thực quản đã được ghi nhận nơi các phụ nữ không tôn trọng cách sử dụng. Nhưng, nghiêm trọng hơn, những trường hợp hoại tử xương (ostéonécrose) của xương hàm đã được ghi nhận. Mức độ nghiêm trọng của biến chứng này giải thích tại sao tất cả những thuốc thuộc họ này được theo dõi tăng cường từ năm 2006. Ngoài ra, biến chứng này biện minh rằng chỉ những phụ nữ có nguy cơ cao bị gãy xương mới nhận điều trị này. NGHIỆN RƯỢU Tên thuốc : Equanil Phòng bào chế : Sanofi-Aventis (và générique: meprobamate Richard) Được bán từ 50 năm nay Equanil từ lâu đã được sử dụng để điều trị những triệu chứng khác nhau: lo âu, chuột rút, mất ngủ.. Vào năm 2006, các chỉ định đã được giới hạn vào việc giúp đỡ cai rượu, “khi tỷ suất lợi ích/nguy cơ của các benzodiazépine không có vẻ thuận lợi.” Số các viên thuốc mỗi hộp đã được thu giảm bởi vì thật vậy Equanil là nguồn gốc của những trường hợp tử vong do dùng quá liều, nhất là nơi những người tình nguyện. “Dầu những tình huống thuốc này được sử dụng như thế nào đi nữa, méprobamate có một cán cân các lợi ích/các nguy cơ bất thuận lợi”, tạp chí Prescrire vào tháng hai 2010 đã đánh giá như vậy, đồng thời ủng hộ việc rút thuốc này ra khỏi thị trường. “Equanil có hiệu quả thấp, và những trường hợp quá liều là nguy hiểm. Ta cần coi chừng nhất là khi chứng nghiện rượu mãn tính là một tình huống trong đó sử dụng sai thuốc là một quy tắc của cuộc sống”, GS Chast, thuộc viện hàn lâm quốc gia dược đã nói thêm vào như vậy. Michel Lejoyeux, giáo sư tâm thần học và addictologie (Paris VIII), xác nhận rằng quả thật méprobamate không có vai trò trong điều trị cai rượu, vì lẽ độ dung nạp của nó thấp hơn độ dung nạp đối với benzodiazépine, những thuốc chuẩn trong điều trị này. Hồ sơ phải được xem xét lại vào tháng tư năm nay. ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG Tên thuốc : Lantus, Actos Hãng bào chế : Sanofi Aventis, Takeda Được bán từ 8 và 9 năm nay Lantus là một insuline. Tác dụng của nó được triển khai trong 24 giờ. Nơi những người bị bệnh đái đường phụ thuộc insuline (loại 1), Lantus được kết hợp với một mũi tiêm insuline có tác dụng nhanh thực hiện trước mỗi bữa ăn, nó cho phép kéo dài những nồng độ đường huyết trong cả ngày và làm giảm nguy cơ bị hạ đường huyết vào ban đêm. Việc sử dụng Lantus trong những trường hợp đái đường loại 2 (đái đường béo) thường thấy nhưng những lợi ích mang lại ít hơn. Lantus được theo dõi từ năm 2009, hai công trình nghiên cứu Châu Âu cho thấy rằng Lantus có thể là nguồn gốc của một sự gia tăng các ung thư (đái đường loại 2). Hiệu quả của thuốc trong sự cân bằng của bệnh đái đường loại 1 không xét lại việc sử dụng thuốc trong trường hợp này. Còn Actos, một thuốc hạ đường huyết, tương tự với Avandia, thuốc được rút ra khỏi thị trường vào tháng 11 vừa qua và một sự gia tăng nguy cơ tim mạch. Một công trình nghiên cứu dịch tễ học đã cho thấy rằng Actos làm gia tăng nguy cơ ung thư bàng quang, nguy cơ được xác nhận bởi một thí nghiệm nơi chuột. Cũng làm dễ sự xuất hiện phù, việc sử dụng nó phải được dành cho những trường hợp đặc biệt. Cũng như đối với Lantus, Actos hiện nay được kê đơn rộng rãi. NGHIỆN THUỐC NGỦ Tên thuốc : Rohypnol Hãng bào chế : Roche Được bán từ 20 năm nay, là các thuốc ngủ trong số được ưa chuộng nhất, Rohypnol và Stilnox (Sanofi-Aventis) đã được đưa ra thị trường cách nay hơn 20 năm. Rohypnol, thuộc họ các benzodiazépines như thí dụ Valium, chịu “một điều tra cảnh giác nghiện (addictovigilance) về những trường hợp lạm dụng, phụ thuộc và sử dụng đổi hướng từ năm 2000.”, Afssaps đã xác nhận như vậy. Rohypnol từ lâu đã là loại thuốc được chuyển hướng nhất bởi các người nghiện ma túy, điều này khiến phải biến đổi những điều kiện kê toa và phát thuốc vào năm 2000. Stilnox cũng chịu cùng sự theo dõi từ năm 2000. Hồ sơ của hai loại thuốc này phải được xem lại bởi giới hữu trách y tế trong những tháng đến. Đối với GS Michel Lejoyeux, giáo sư tâm thần học và addictologie (Paris VII), những thuốc an thần này có thể gây nên tình trạng say và phụ thuộc. “Ngày nay, trong sự quản lý các rối loạn giấc ngủ, một điểm tạo nhất trí ; không có chỉ định cho thuốc ngủ lâu dài”, thầy thuốc tâm thần này đã nhấn mạnh như vậy. Theo ông, các thầy thuốc, kể cả những thầy thuốc bệnh viện có khuynh hướng kê đơn quá dễ dàng các thuốc ngủ. Và một sự cai thuốc có thể tỏ ra phục tạp với sự theo dõi y khoa. ỨC CHẾ SỰ SINH SỮA Tên thuốc : Parlodel Phòng bào chế : Novartis Pharma Được bán từ 23 năm nay. Parlodel (bromocriptine) là một loại thuốc được kê đơn trong 3 tình huống : ức chế sự sinh sữa đối với những phụ nữ vừa mới sinh và không muốn cho con bú, nhưng cũng được chỉ định trong bệnh Parkinson và vài adénome. Thuốc này dưới sự theo dõi tăng cường chỉ trong trường hợp kê đơn cho những phụ nữ trẻ vừa mới sinh. Đối với hai chỉ định kia thì không có vấn đề. Được dùng trong vài ngày ngay sau khi sinh, Parlodel ức chế sự sinh sữa. Nhưng thuốc này, được kê đơn từ lâu nơi sản phụ trẻ, làm gia tăng nguy cơ tai biến mạch máu não, xảy ra sau khi sinh. “Các phụ nữ có thai và trong thời kỳ hậu sản có một sự tăng hoạt tính mạch máu (hyperactivité vasculaire), GD Jean –Louis Montastruc (Toulouse) đã giải thích như vậy. Chúng tôi đã nhận thức cách nay vài năm rằng dược phẩm này chịu trách nhiệm các tai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim nơi các sản phụ trẻ. Mặc dầu biến cố này là hiếm hoi, nhưng nghiêm trọng. Đối với chúng tôi tỷ suất lợi ích/nguy cơ không thuận lợi trong chỉ định ức chế sự sinh sữa. Ở CHU de Toulouse, các thầy thuốc không còn kê toa Parlodel cho các phụ nữ không muốn cho con bú nữa.”

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf77_3088.pdf
Tài liệu liên quan