Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 382
HIỆU QUẢ GÂY TÊ TỦY SỐNG VỚI BUPIVACAINE  
KẾT HỢP SUFENTANIL VÀ MORPHINE CHO PHẪU THUẬT NỘI SOI  
PHỤC HỒI THÀNH BẸN 
Võ Nguyên Hồng Phúc*, Nguyễn Cao Cương** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Gây tê tủy sống cho phẫu thuật nội soi phục hồi thành bẹn (TEP) được xem như là cung cấp thêm 
một lựa chọn về phương pháp vô cảm cho phẫu thuật viên và bệnh nhân. Thêm morphine vào hỗn hợp thuốc gây 
tê tủy sống, chúng tôi muốn biết hiệu quả của phương pháp gây tê tủy sống có thêm morphine như thế nào đối 
với phẫu thuật TEP. 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả vô cảm trong mổ và hiệu quả giảm đau sau mổ của gây tê tủy sống với 
bupivacaine kết hợp sufentanil và morphine. 
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: 67 bệnh nhân nam được gây tê tủy sống (33 bằng bupivacaine – 
sufentanil và 34 bằng bupivacaine – sufentanil – morphine) cho phẫu thuật phục hồi thành bẹn nội soi bằng 
phương pháp TEP tại ba bệnh viện ở thành phố Cần Thơ. 
Kết quả: Nhóm 1 và 2 đạt hiệu quả gây tê tương tự nhau: đạt mức tê cao nhất là T6, phù hợp cho bơm CO2 
vào khoang trước phúc mạc, thời gian duy trì mức tê T10 kéo dài 120,9 ± 33,6 phút, phù hợp với thời gian phẫu 
thuật. Hiệu quả giảm đau sau mổ của nhóm 2 tốt hơn so với nhóm 1: thời gian VAS ≤ 3 kéo dài 20,8 giờ so với 
10,2 giờ, tỉ lệ bệnh nhân cần thêm thuốc giảm đau sau mổ cũng giảm, đạt mức 15% so với 64%. 
Kết luận: Gây tê tủy sống với bupivacaine kết hợp sufentanil và morphine phù hợp cho phẫu thuật TEP, 
giúp giảm đau hiệu quả cho bệnh nhân sau mổ. 
Từ khoá: gây tê tuỷ sống với Bupivacine, Sufentanil và Morphine, phẫu thuật nội soi phục hồi thành bụng 
ABSTRACT 
ADDING SUFENTANIL AND MORPHINE INTO INTRATHECAL BUPIVACAINE 
 FOR TOTAL EXTRAPERITONEAL PREPERITONEAL REPAIR 
Vo Nguyen Hong Phuc, Nguyen Cao Cuong  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 382 ‐ 386 
Background: Spinal anesthesia for TEP has been offering a new choice both for surgeons and patients. The 
main purpose of adding morphine into the “spinal cocktail” is to know how this method works on TEP. 
Objectives: Evaluating effections of spinal bupivacaine with sufentanil and morphine during TEP and 
post‐operating pain management. 
Method: 67 male patients were given spinal anesthesia (33 with bupivacaine – sufentanil and 34 with 
bupivacaine – sufentanil – morphine) for TEP at three hospitals in Cantho City. 
Results: Group 1 and 2 both had good results in giving effective anesthesia for the operation: highest block 
level is T6 and time of T10 bloking is 120.9± 33.6 minutes. Group 2 had better post‐operating pain relief than 
group 1: VAS ≤ 3 in 20.8 vs 10.2 hours, only 15% of patients asked for IV pain killers (vs 64% of group 1). 
Conclusion: Spinal anesthesia with bupivacaine adding sufentanil and morphine is a good choice for TEP, 
* Bộ môn GMHS – Khoa Y – Trường Đại học Y Dược Cần Thơ   ** Bệnh viện Bình Dân 
Tác giả liên lạc: BS. Võ Nguyên Hồng Phúc   ĐT: 0902485075   Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát  383
this method also helps in post‐operating pain management. 
Keywords: spinal bupivacaine with sufentanil and morphine, TEP 
MỞ ĐẦU 
Vô  cảm  cho phẫu  thuật nội  soi ngoài phúc 
mạc  là  một  vấn  đề  còn  rất  nhiều  tranh  cãi. 
Những ngày đầu mới ra đời, phẫu thuật nội soi 
vùng  bụng  được  thực  hiện  dưới  gây mê  toàn 
thể, vì sự an toàn cho bệnh nhân và sự dễ dàng 
cho phẫu thuật viên. Năm 2011, Hiệp hội Thoát 
vị Nội soi Quốc tế (IEHS) đã công bố hướng dẫn 
cho  phép  phẫu  thuật  nội  soi  ngoài  phúc mạc 
phục hồi thành bẹn (TEP) thực hiện dưới gây tê 
tuỷ  sống như  là một  lựa  chọn(2,4). Việc kết hợp 
thuốc  tê  bupivacaine  với  fentanyl  hoặc 
sufentanil và morphine được xem là ưu thế nhất 
về khả năng giảm liều thuốc tê, tăng hiệu quả vô 
cảm và kéo dài hiệu quả giảm đau sau mổ đến 
24  giờ(1,3).  Thêm morphine  vào  hỗn  hợp  thuốc 
gây  tê  tủy sống, chúng  tôi muốn biết hiệu quả 
của  phương  pháp  gây  tê  tủy  sống  có  thêm 
morphine như thế nào đối với phẫu thuật TEP. 
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Hiệu quả gây 
tê  tủy  sống với bupivacaine kết hợp  sufentanil 
và morphine  cho  phẫu  thuật  nội  soi  phục  hồi 
thành bẹn”. 
Mục tiêu nghiên cứu 
‐  Đánh giá hiệu quả vô  cảm  trong mổ  của 
gây  tê  tủy  sống  với  bupivacaine  kết  hợp 
sufentanil và morphine. 
‐ Đánh giá hiệu quả giảm  đau  sau mổ  của 
gây  tê  tủy  sống  với  bupivacaine  kết  hợp 
sufentanil và morphine. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 
Thiết kế nghiên cứu 
Thử nghiệm  lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm 
chứng. 
Đối tượng nghiên cứu 
Các bệnh nhân nam được phẫu  thuật phục 
hồi thành bẹn nội soi bằng phương pháp TEP tại 
bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, bệnh 
viện Đa khoa Thành phố Cần Thơ và bệnh viện 
Trường Đại học Y dược Cần Thơ. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân nam, có chỉ định TEP, ASA  I,  II, 
III. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Thoát vị bẹn nghẹt, chống chỉ định với gây 
tê tủy sống, dị ứng với thuốc tê và opioid. 
Cỡ mẫu 
67 bệnh nhân, chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. 
‐ Nhóm 1: Tê  tủy sống với hỗn hợp 11 mg 
bupivacaine 0,5% + 5 mcg sufentanil. 
‐  Nhóm  2:  Tê  tủy  sống  với  11  mg 
bupivacaine 0,5% + 2,5 mcg sufentanil + 100 mcg 
morphine. 
Các theo dõi và đánh giá. 
Tác dụng vô cảm trong mổ 
Ghi nhận mức phong bế cao nhất. 
Ghi nhận thời gian từ lúc kết thúc tiêm thuốc 
vào  khoang dưới  nhện  đến  lúc phong  bế  cảm 
giác mức T10, T6. 
Ghi nhận thời gian duy trì tê T10. 
Đánh giá hiệu quả gây tê tốt, hoặc cần thêm 
thuốc, hoặc phải chuyển sang gây mê. 
Tác dụng giảm đau sau mổ 
Theo dõi điểm đau sau mổ theo VAS, trong 
24 giờ đầu. 
Ghi nhận thời gian VAS = 0. 
Ghi nhận thời gian VAS ≤ 3. 
Ghi nhận tỉ lệ bệnh nhân cần thuốc giảm đau 
sau mổ. 
Các ghi nhận khác 
Thay đổi huyết động: huyết áp, mạch 
Thay đổi hô hấp: SpO2 
Các  tác dụng không mong muốn khác: An 
thần, buồn nôn và nôn, ngứa, bí  tiểu,  lạnh run, 
đau đầu, đau lưng. 
Mức  độ  hài  lòng  của  bệnh  nhân  và  phẫu 
thuật viên. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 384
KẾT QUẢ – BÀN LUẬN 
Từ  tháng 07/2012 đến  tháng 07/2013, chúng 
tôi tiến hành gây tê tủy sống trên 67 bệnh nhân 
mổ  thoát vị bẹn nội  soi. Bệnh nhân  được  chia 
thành hai nhóm ngẫu nhiên gồm 33 bệnh nhân 
được  gây  tê  bằng  bupivacaine  và  sufentanil 
(nhóm  1);  34  bệnh  nhân  được  gây  tê  bằng 
bupivacaine  kết  hợp  sufentanil  và  morphine 
(nhóm 1). Chúng tôi có được kết quả như sau: 
Các  bệnh  nhân  thuộc  nhóm  1  và  nhóm  2 
được  lựa chọn  là bệnh nhân nam. Trên thực tế, 
các bệnh nhân nữ vẫn có  thoát vị bẹn  (thoát vị 
môi  lớn), nhưng số  lượng không đáng kể. Hơn 
nữa,  có  sự  khác  biệt  về  ngưỡng  đau  tùy  theo 
giới. Do đó, để dễ dàng theo dõi, đánh giá mức 
độ đau, trong giới hạn của nghiên cứu, chúng tôi 
chỉ  chọn  các  bệnh nhân nam.  Ở  2 nhóm  bệnh 
nhân, có sự tương đồng về tuổi, chiều cao, BMI, 
và phân bố ASA I – III. Từ đó thấy rằng các bệnh 
nhân được phân bố vào 2 nhóm một cách ngẫu 
nhiên đã có sự tương đồng, giúp cho sự khảo sát 
kết quả được khách quan, không bị sai lệch bởi 
đặc điểm tuổi tác hay tình trạng sức khỏe. 
Bảng 1. Tuổi, chiều cao và BMI. 
Đặc điểm Nhóm 1 Nhóm 2 Giá trị p
 n = 33 n = 34 
Tuổi (năm) 50,6 ± 22,1* 
(18 – 90)† 
52,3 ± 21,8
(22 – 85) 0,749 
Chiều cao (cm) 164,2 ± 6,6 166,6 ± 5,6
0,100 (150 – 175) (152 – 178)
BMI 21,24 ± 2,47 
(14,7 – 29,6) 
21,50 ± 2,98
(15,5 – 29,4)
0,704 
* Trung bình ± độ lệch chuẩn † Giá trị tối thiểu – giá trị 
đối đa 
Sau nghiên cứu, chúng tôi thấy trên 80% các 
bệnh nhân cả 2 nhóm đều đạt mức tê T6. Mức tê 
này  phù  hợp  cho  phẫu  thuật  bơm  CO2  ngoài 
phúc mạc, không gây khó chịu cho bệnh nhân. 
Nhóm bệnh nhân 2 có 18% (6 bệnh nhân) chỉ đạt 
mức T10,  tuy nhiên kết quả  cho  thấy khi bơm 
CO2  chậm  với  áp  lực  thấp  thì  bệnh  nhân  vẫn 
chấp nhận, không  cảm  thấy khó  chịu. Sự khác 
biệt này có thể do 2 nguyên nhân. Một là mặc dù 
lượng  bupivacaine  ở  2  nhóm  là  như  nhau  (11 
mg),  tuy  nhiên  nhóm  1  được  thêm  5  mcg 
sufentanil,  trong khi  đó nhóm  2  thêm  2,5 mcg 
sufentanil. Rất có thể do giảm liều sufentanil nên 
ở nhóm can  thiệp mức  tê không đạt được như 
nhóm  chứng.  Thống  kê  cho  thấy  sự  khác  biệt 
này không có ý nghĩa, và mẫu nghiên cứu cũng 
không  lớn,  nên  rất  cần  nghiên  cứu  thêm. 
Nguyên nhân thứ hai có thể do nhóm 2 có pha 
thêm 100 mcg morphine, morphine này  có  thể 
ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc tê. 
Chúng  tôi  thấy  rằng  thời gian  cần  chờ để 
đạt T10 và T6 ở nhóm 2 lần lượt là 3,8 phút và 
5,1 phút. Thời gian này không khác biệt so với 
nhóm 1 (lần  lượt  là 2,6 phút và 4,4 phút). Với 
thời gian tiềm phục ngắn khoảng 3‐5 phút như 
kết  quả  chúng  tôi  đạt  được,  ta  thấy  rằng 
morphine không làm ảnh hưởng đến thời gian 
tiềm phục của thuốc tê có thêm sufentanil. Rất 
có thể điều này được che lấp bởi thời gian tiềm 
phục  ngắn  của  sufentanil.  Quan  trọng  nhất, 
với  thời gian  tiềm phục ngắn, việc gây  tê  tủy 
sống  với  hỗn  hợp  bupivacaine  –  sufentanil  – 
morphine không hề làm kéo dài thời gian chờ 
đợi của phẫu thuật viên. 
Với liều lượng thuốc tê và opioid sử dụng để 
gây tê tủy sống, thời gian duy trì mức tê T10 là 
129,9 (nhóm 1) và 120,9 (nhóm 2). Thời gian này 
so với  thời gian phẫu  thuật  ở  cả 2 nhóm bệnh 
nhân đều dài hơn, lần lượt là 59,8 phút (nhóm 1) 
và 78,4 phút (nhóm 2). Thời gian phẫu thuật dài 
nhất  ở  nhóm  1  là  110  phút,  nhóm  2  đến  140 
phút. Trong khi  thời gian  ức  chế T10 dài nhất 
đạt  được  lần  lượt  là  169 phút  (1)  200 phút  (2) 
(thời gian phẫu thuật này không phân biệt thoát 
vị bẹn  trực  tiếp hay gián  tiếp, một bên hay hai 
bên).  Điều  này  chứng  tỏ  phương  pháp  gây  tê 
tủy sống và liều lượng thuốc nghiên cứu là phù 
hợp  cho phẫu  thuật TEP. Kết  quả  là  hiệu  quả 
gây  tê  tốt ở cả 2 nhóm bệnh nhân  là  trên 80%, 
mặc  dù  nhóm  1  cho  thấy  tỉ  lệ  tê  tốt  cao  hơn 
nhóm  2  (97%  so  với  82%)  nhưng  sự  khác  biệt 
này là không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát  385
0
50
100
150
Nhóm 1 Nhóm 2
Phút
Thời gian phẫu thuật
Biểu đồ 1. Thời gian phẫu thuật và thời gian duy trì 
mức tê T10 
Nhóm  2  có hiệu quả giảm  đau  sau mổ  tốt 
hơn nhóm 1 với trung bình VAS ≤ 3 suốt 24 giờ, 
trong khi nhóm 1 có VAS > 3 vào giờ thứ 4 sau 
mổ. Thời gian đạt VAS = 0 nhóm 2 kéo dài hơn 
khoảng 2,5 lần so với nhóm 1 (5,2 giờ so với 1,9 
giờ). Từ đó ta thấy rằng morphine tủy sống kéo 
dài thời gian VAS = 0 hơn rất nhiều, có thể đến 
24  giờ  sau mổ,  trung  bình  là  5,2  giờ  sau mổ. 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  chúng  tôi 
không yêu cầu VAS = 0, mà chấp nhận mức VAS 
≤ 3. Thời gian VAS  ≤ 3  là  thời gian bệnh nhân 
không đau hoặc đau nhẹ, không cần cho  thêm 
thuốc. Thời gian giảm đau hiệu quả trung bình ở 
nhóm nghiên cứu là 20,8 giờ (0 – 24 giờ), so với 
nhóm chứng là 10,9 giờ có sự khác biệt rõ. Trên 
lý thuyết, morphine tủy sống giúp giảm đau sau 
mổ 18 – 24 giờ. Kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi nằm trong khoảng lý thuyết, phù hợp với lý 
thuyết, và tương đồng với các tác giả khác. 
Biểu đồ 2. Điểm đau VAS trong 24 giờ sau mổ. 
Bảng 2. Thời gian VAS ≤ 3. 
Tác giả n Loại PT Morphine (mcg) T giảm đau hiệu quả(giờ)
Trần Huỳnh Đào(8) 117 Mổ LT 100 + sufentanil 26,2 
Võ Văn Hiển(9) 33 Mổ CS 100 22,21
Phan Anh Tuấn(7) 30 Mổ chi dưới 100 23,6 
Nguyễn Thế Lộc(5) 200 Mổ LT 100 24,8 
Nguyễn Văn Minh(6) 20 Mổ LT 100 22,6 
Chúng tôi 34 TEP 100 20,8 
Mục  tiêu của chúng  tôi khi  thêm morphine 
vào hỗn hợp tê tủy sống là giảm nhu cầu thuốc 
giảm đau sau mổ. Các bệnh nhân ngay khi kết 
thúc phẫu thuật được truyền tĩnh mạch thường 
quy paracetamol 1g. Sau đó đánh giá điểm đau 
VAS  trong  24  giờ,  nếu  >  3  thì  cho  thêm 
paracetamol 1g. Kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi  cho  thấy nhóm 2  chỉ  có 5 bệnh nhân  (15%) 
yêu  cầu  thêm  thuốc giảm  đau,  so với  21 bệnh 
nhân  (64%)  ở  nhóm  1.  Điều  này  cho  thấy 
morphine giảm nhu  cầu  thêm  thuốc giảm  đau 
sau mổ rất nhiều. 
Trong quá  trình  theo dõi bệnh nhân, chúng 
tôi đã ghi nhận và xử  trí các  tác dụng phụ gặp 
phải. Các  tác dụng phụ bao gồm  trong mổ và 
sau mổ. Trong mổ, chúng tôi gặp phải chủ yếu 
là  tụt huyết  áp  và mạch  chậm.  Sau mổ  có  vài 
trường hợp lạnh run và ngứa. 
Khi  đánh  giá  mức  độ  hài  lòng  của  bệnh 
nhân và phẫu thuật viên, chúng tôi khảo sát bao 
gồm cả sự hài lòng về chất lượng cuộc mổ, chất 
lượng giảm đau sau mổ và các tác dụng phụ của 
phương pháp vô cảm. Về phía bệnh nhân, 85% 
bệnh nhân được gây tê với morphine hài lòng về 
chất  lượng  cuộc mổ và giảm  đau  sau mổ. Các 
bệnh  nhân  hài  lòng  vì  sự  thoải mái  suốt  cuộc 
mổ,  không  cần  phải  gây mê,  có  thể  giao  tiếp 
được với phẫu thuật viên. 15% bệnh nhân không 
hài lòng (5 bệnh nhân) do thấy đau ở cuối cuộc 
mổ. Các bệnh nhân này như đã nêu  ở  trên, vì 
cuộc mổ kéo dài, nên tác dụng gây tê giảm. Mặc 
dù đã được xử trí cho thêm thuốc giảm đau, tuy 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 386
nhiên, bệnh nhân vẫn có trải nghiệm không tốt 
với cảm giác đau trong mổ. Về phía phẫu thuật 
viên, 21%  trường hợp không hài  lòng do bệnh 
nhân bị đau cuối cuộc mổ. Tuy nhiên phần  lớn 
phẫu thuật viên và bệnh nhân đều hài lòng với 
chất lượng giảm đau sau mổ, bệnh nhân không 
đau, với VAS 0 – 3 điểm,  tạo sự  thoải mái cho 
người  bệnh,  người  bệnh  phối  hợp  với  phẫu 
thuật viên  để  đánh giá khối  thoát vị  trong  lúc 
mổ,  cũng  như  đánh  giá  thành  bụng  sau  đặt 
mesh. 
KẾT LUẬN 
Nhóm bệnh nhân  được gây  tê với hỗn hợp 
bupivacaine  +  sufentanil  + morphine  đạt  được 
hiệu  quả  gây  tê  tốt  tương  đương  nhóm 
bupivacaine + sufentanil: Đạt mức tê cao nhất  là 
T6, phù hợp cho bơm CO2 vào khoang trước phúc 
mạc; thời gian duy trì mức tê T10 kéo dài 120,9 ± 
33,6 phút, phù hợp với thời gian phẫu thuật. 
Hiệu quả giảm đau sau mổ của nhóm bệnh 
nhân  được  gây  tê  bằng  bupivacaine  kết  hợp 
sufentanil  và  morphine  tốt  hơn  so  với  nhóm 
chứng: thời gian giảm đau hiệu quả kéo dài 20,8 
± 7,7 giờ,  tỉ  lệ bệnh nhân cần  thêm  thuốc giảm 
đau sau mổ cũng giảm, đạt mức 15% so với 64%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bernard  C  (2002),  ʺUnderstanding  the  physiology  and 
pharmacology  of  epidural  and  intrathecal  opioidsʺ,  Best 
Practice & Research Clinical Anesthesiology, 16(4), p. 489‐505. 
2. Bittner R,  et  al  (2011),  ʺGuidelines  for  laparoscopic  (TAPP) 
and  endoscopic  (TEP)  treatment  of  inguinal  hernia 
[International  Endohernia  Society  (IEHS)]ʺ,  Surg Endosc, 
25(9), p. 2773‐2843. 
3. Horlocker TT,  et al  (2008), Practice guilines for the prevention, 
detection, and management of respiratory depression associated with 
neuraxial opioid administration,  An  updated  report  by  the 
American  Society  of  Anesthesiologist  Task  Force  on 
Neuraxial Opioids. 
4. Lal P, et al  (2007),  ʺLaparoscopic  total extraperitoneal  (TEP) 
inguinal hernia  repair under epidural anesthesia: a detailed 
evaluationʺ, Surg Endosc, 21(4), p. 595‐601. 
5. Nguyễn Thế Lộc (2010), ʺNghiên cứu phối hợp buvicaine với 
morphine  (opiphine) hoặc  sufentanyl  trong gây  tê  tủy  sống 
để mổ và giảm đau sau mổ lấy thaiʺ, Tạp chí Thông tin Y Dược, 
Bộ Y tế, 8, p. 23‐25. 
6. Nguyễn Văn Minh và cs (2006), ʺNghiên cứu tác dụng giảm 
đau sau mổ của morphine tủy sống trong mổ lấy thaiʺ, Kỷ yếu 
công trình nghiên cứu khoa học, Hội nghị gây mê toàn quốc, p. 10‐
16. 
7. Phan Anh Tuấn  (2008), Đánh giá kết hợp gây tê tủy sống bằng 
bupivacaine kết hợp với morphine và bupivacaine kết hợp với 
fentanyl trong mổ chi dưới, Luận văn Thạc sĩ Y khoa. 
8. Trần  Huỳnh  Đào  (2012),  Đánh giá hiệu quả của phối hợp 
bupivacaine với sufentanil và morphine trong gây tê tủy sống mổ 
lấy thai, Luận án chuyên khoa  II chuyên ngành Gây mê hồi 
sức. 
9. Võ Văn Hiển (2008), Đánh giá gây tê tủy sống bằng bupivacaine 
kết hợp morphin trong phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống thắt 
lưng, Luận văn Thạc sĩ Y khoa. 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014