Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng giao tiếp phi ngôn ngữ cho học viên các trường sĩ quan quân đội hiện nay

Non-verbal communication skills play an important role and contribute to

developing learners’ competency to apply knowledge to effectively solve

practical situations. However, currently training non-verbal communication

skills for cadets at military universities is quite limited. The following article

clearly states reality and suggests measures to practise non-verbal

communication skills for cadets at military universities today. These solutions

will help students better understand the importance of non-verbal

communication skills to the process of personal formation and development;

realize the problem deeply and effectively do it.

pdf5 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 12/05/2022 | Lượt xem: 528 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng giao tiếp phi ngôn ngữ cho học viên các trường sĩ quan quân đội hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, phong cách sư phạm của mình; từ đó, việc vận dụng những kĩ năng GTPNN sẽ làm tăng sức hấp dẫn, thú vị cho bài giảng. Quá trình học tập tại các trường SQQĐ, các Khoa giáo viên sẽ tiến hành giao cho HV nội dung bài giảng đòi hỏi HV phải tiến hành hoạt động thiết kế kế hoạch, xây dựng nội dung, bố trí nội dung phù hợp. Mục đích của hoạt động này nhằm góp phần củng cố, mở rộng, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức chuyên ngành mà HV đã được trang bị vào quá trình giảng dạy. Quá trình lên lớp, HV trong tâm thế của giảng viên, phải tiến hành giảng dạy những nội dung đã thục luyện, truyền thụ những kinh nghiệm tới người học sao cho dễ hiểu, dễ nhớ nhất. Có nhiều HV thời gian đầu còn bỡ ngỡ do phải tiếp xúc với môi trường, cách thức làm việc mới nên trạng thái tâm lí bộc lộ rõ qua hành vi, tâm thế còn lúng túng, mất bình tĩnh, giọng nói ngập ngừng, ánh mắt thể hiện sự lo lắng... Vì vậy, phải thường xuyên cho HV tiếp xúc và làm quen với hoạt động giảng tập, kiến tập, thực tập để rèn luyện kĩ năng GTPNN. - Thông qua việc mở rộng các mối quan hệ giao lưu: Xuất phát từ điều kiện đặc thù của các trường SQQĐ là đào tạo HV trong môi trường khép kín, cán bộ, giảng viên trực tiếp giảng dạy trong những thời điểm nhất định nên chưa có nhiều điều kiện tiếp cận, giao lưu, học hỏi kinh nghiệm từ các trường đại học, cao đẳng bên ngoài. Tăng cường hoạt động giao lưu, kết nghĩa, mở rộng quan hệ với các đối tượng khác trong quá trình đào tạo có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó không những giúp HV vận dụng những kiến thức vào xử lí các tình huống giao tiếp khác nhau, để nâng cao kĩ năng GTPNN, kĩ năng thuyết phục quần chúng, mà còn giúp HV tích luỹ kinh nghiệm học hỏi được trong các quan hệ đó để phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp sau này. Các hoạt động thường xuyên được tiến hành ở nhà trường SQQĐ trong thời gian qua là tổ chức cho HV tham quan mô hình học cụ ở các đơn vị chiến đấu, tham quan học tập các di tích lịch sử văn hóa, tổ chức các buổi sinh hoạt chung giữa HV và các tổ chức nhân dân địa phương nhân các dịp lễ, Tết, ngày truyền thống của dân tộc; tổ chức giao lưu văn hóa văn nghệ với các tổ chức đoàn thể thanh niên, thiếu niên, các trường học phổ thông, hội cựu chiến binh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của địa phương nơi đóng quân. Tổ chức có hiệu quả các hoạt động kết nghĩa khác: đưa HV tham gia giúp nhân dân sản xuất trong dịp hè tình nguyện; phối hợp với các tổ chức quần chúng, thanh niên lao động vệ sinh môi trường; tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa; hoạt động giúp đỡ lẫn nhau khi thiên tai, hoạn nạn... Đây là những hoạt động thực tiễn hết sức ý nghĩa, trực tiếp tác động tới sự chuyển biến nhận thức, hành vi giao tiếp của mỗi HV. - Thông qua hoạt động thực tiễn, hoạt động ngoại khóa: Đa dạng hóa các hoạt động ngoại khóa như: Tổ chức các hội thi, hội thao, hội diễn văn nghệ, thể dục thể thao, tham quan, tọa đàm, diễn đàn, giao lưu, tuyên truyền, cổ VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 19-23 ISSN: 2354-0753 23 động trực quan, học tập chính trị; bồi dưỡng kĩ năng mềm, kĩ năng sư phạm, kĩ năng làm việc nhóm. Phối hợp với các dự án, tổ chức Đoàn, Hội đồng HV mở các lớp rèn kĩ năng cho HV như: Lớp rèn kĩ năng nói, lớp giáo dục kĩ năng thuyết trình, kĩ năng hợp tác... Kết hợp với các Khoa giáo viên tổ chức các hội thi nghiệp vụ sư phạm cho HV; qua đó, tăng cường hợp tác, giao lưu để hình thành và phát triển các kĩ năng GTPNN cho HV. Chủ trương chung của các nhà trường là quan tâm bồi dưỡng cho HV toàn diện cả về trình độ, kiến thức, năng lực tư duy, kĩ năng và phương pháp sư phạm; do vậy, thông qua các hội thi, hình thức hoạt động cũng là cơ sở để HV rèn luyện được kĩ năng GTPNN, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhà trường. - Thông qua quá trình tự giáo dục của HV. Thông qua cách thức ứng xử của HV, ít nhiều có thể dự đoán được văn hóa giao tiếp của họ. Tuỳ tình huống giao tiếp mà HV thể hiện thái độ, hành vi, cử chỉ của mình phản ứng với sự tác động của người khác một cách phù hợp thông qua nét mặt, cử chỉ, tư thế... Mỗi biểu hiện cảm xúc (vui vẻ, hồ hởi, buồn bực, giận dữ, lạnh lùng, thờ ơ, cởi mở) thường để lại ấn tượng sâu đậm cho đối tượng giao tiếp. Do vậy, để đạt được hiệu quả cao, HV phải thường xuyên tự trau dồi và rèn luyện cho mình những kĩ năng trên để quá trình giao tiếp thành công và đạt được mục đích. - Thông qua quá trình giải quyết các tình huống giao tiếp. Hoạt động quân sự diễn ra trong môi trường động bởi tính đặc thù riêng, thường xuyên biến đổi liên tục. Muốn thích ứng với nghề nghiệp, HV phải có khả năng ứng xử tốt, xử trí linh hoạt, tinh nhạy các tình huống giao tiếp; vận dụng linh hoạt, thường xuyên các phương tiện GTPNN trong chính quá trình giao tiếp của mình. Nếu không có kĩ năng ứng xử, HV dễ bị lúng túng, mất bình tĩnh. Để giải quyết tốt các tình huống giao tiếp, trong khi ứng xử, HV phải thực sự chú ý tới các yếu tố thuộc về ngôn ngữ cơ thể và trạng thái cảm xúc bản thân. HV dựa vào những yếu tố hiện diện (những biểu hiện) bên ngoài của đối tượng giao tiếp như: sắc thái biểu cảm, nét mặt, ánh mắt, ngữ điệu, thanh điệu, tốc độ nói, cao độ, trường độ, cử chỉ, động tác và dựa vào hoàn cảnh giao tiếp mà đưa ra những nhận định về những trạng thái tâm lí bên trong của con người, phán đoán về bản chất nhân cách của đối tượng giao tiếp, phán đoán tính chất mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp; đồng thời có thể dự đoán được ý nghĩa sâu xa trong nội dung giao tiếp mà đối tượng muốn truyền đạt. HV phải biết sử dụng phối hợp các phương tiện GTPNN một cách hài hòa, với liều lượng và cách thức thích hợp trong từng tình huống giao tiếp; giảm bớt những cảm xúc tiêu cực, tăng những cảm xúc tích cực cho đối tượng giao tiếp. 3. Kết luận Kĩ năng GTPNN có vai trò quan trọng, giúp HV các trường SQQĐ truyền tải, diễn đạt, biểu đạt nội dung giao tiếp một cách thuyết phục hơn, tạo sự tương tác tích cực, gần gũi giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp. Rèn luyện kĩ năng GTPNN cho HV các trường SQQĐ hiện nay là một quá trình tích lũy lâu dài, HV phải dựa vào năng lực bản thân cùng với sự giúp đỡ của các lực lượng sư phạm trong nhà trường để xây dựng lộ trình rèn luyện các kĩ năng này cho thích hợp. Bài báo nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp nhằm giúp HV các trường SQQĐ hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của kĩ năng GTPNN đối với quá trình hình thành, phát triển nhân cách HV, giúp HV nhận thức vấn đề một cách sâu sắc và có cách thức thực hiện hiệu quả. Tài liệu tham khảo Hồ Lê (1996). Tính quy luật của cơ chế ngôn giao. NXB Khoa học xã hội. Hoàng Anh (1994). Hoạt động - Giao tiếp - Nhân cách. NXB Đại học Sư phạm. Hoàng Anh, Vũ Kim Thanh (1995). Giao tiếp sư phạm. NXB Đại học Sư phạm. Nguyễn Đức Dân (2000). Cử chỉ - thứ ngôn ngữ không lời. Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 8, tr 15-22. Nguyễn Quang (2008). Giao tiếp phi ngôn từ qua các nền văn hóa. NXB Khoa học xã hội. Nguyễn Thiện Giáp (2005). Dẫn luận ngôn ngữ học. NXB Giáo dục. Nguyễn Thiện Giáp (2007). Những yếu tố phi lời trong hội thoại. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Văn Lê (1996). Giao tế nhân sự - Giao tiếp phi ngôn ngữ. NXB Trẻ TP. Hồ Chí Minh. Phạm Vũ Dũng (1996). Văn hóa giao tiếp. NXB Văn hóa thể thao. Phi Tuyết Hinh (1996). Thử tìm hiểu ngôn ngữ của cử chỉ, điệu bộ. Tạp chí Ngôn ngữ học, số 4, tr 7-12. Trần Tuấn Lộ (1993). Khoa học và nghệ thuật giao tiếp. NXB Đồng Tháp. Viện Ngôn ngữ học (2003). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng. Vũ Dũng (2008). Từ điển Tâm lí học. NXB Từ điển Bách khoa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_bien_phap_ren_luyen_ki_nang_giao_tiep_phi_ngon_ngu_ch.pdf
Tài liệu liên quan