Nguyên lý công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm là vận dụng những kiến 
thức vềba pha của chu trình truyền lây mầm bệnh và các giai đoạn của quá trình sinh 
dịch vào công tác thực tiễn. 
Bệnh truyền nhiễm xảy ra được là do ba khâu của quá trình sinh dịch: nguồn 
bệnh, các nhân tốtrung gian truyền bệnh và động vật cảm thụ, và sựliên hệgiữa ba khâu 
đó. Thiếu một trong ba khâu hoặc thiếu sựliên hệgiữa hai trong ba khâu đó thì dịch 
không xảy ra được. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 33 trang
33 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1905 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Phòng chống bệnh truyền nhiễm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 4 
PHÒNG CHỐNG BỆNH TRUYỀN NHIỄM 
I. Các phương pháp phòng bệnh truyền nhiễm 
1. Nguyên tắc chung của công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm 
Nguyên lý công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm là vận dụng những kiến 
thức về ba pha của chu trình truyền lây mầm bệnh và các giai đoạn của quá trình sinh 
dịch vào công tác thực tiễn. 
Bệnh truyền nhiễm xảy ra được là do ba khâu của quá trình sinh dịch: nguồn 
bệnh, các nhân tố trung gian truyền bệnh và động vật cảm thụ, và sự liên hệ giữa ba khâu 
đó. Thiếu một trong ba khâu hoặc thiếu sự liên hệ giữa hai trong ba khâu đó thì dịch 
không xảy ra được. 
Nguồn bệnh là khâu đầu tiên và chủ yếu, là xuất phát điểm của quá trình sinh 
dịch. Nhân tố trung gian truyền bệnh nối liền nguồn bệnh với cơ thể cảm thụ làm cho quá 
trình sinh dịch thực hiện thuận lợi. Động vật cảm thụ là yếu tố làm cho dịch biểu hiện ra, 
đồng thời nó lại biến thành nguồn bệnh làm cho quá trình sinh dịch được nhân lên, được 
thúc đẩy mạnh hơn. 
Trên cơ sở phân tích vai trò và sự liên hệ giữa các khâu trên, công tác phòng 
chống bệnh truyền nhiễm phải nhằm thực hiện cho được việc xóa bỏ một hoặc nhiều 
khâu, hoặc cắt đứt sự liên hệ giữa các khâu với nhau trong quá trình sinh dịch. Chỉ cần 
cắt đứt một khâu hoặc cắt đứt sự liên hệ giữa những hai khâu, cũng đủ làm cho quá trình 
sinh dịch không thực hiện được. Đó là nguyên lý cơ bản của mọi biện pháp phòng chống 
bệnh. Đương nhiên, chỉ giải quyết được một cách căn bản việc đó khi nhận thức của con 
người được nâng cao. 
Khi chưa có dịch các biện pháp phòng bệnh truyền nhiễm đều nhằm đề phòng 
dịch xuất hiện. Chủ chăn nuôi, chủ động vật chuyên chở phải chấp hành các yêu cầu thực 
hiện các biện pháp phòng dịch được quy định trong Pháp lệnh thú y, các Nghị định thi 
hành Pháp lệnh và Điều lệ phòng chống dịch bệnh cho động vật, trong đó việc xây dựng 
vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh là trách nhiệm của mọi cá nhân, tổ chức và cơ quan quản 
lý nhà nước liên quan ngành chăn nuôi. Các cá nhân và tổ chức chăn nuôi động vật phải 
đăng ký xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật và phải chấp hành các quy định 
của pháp luật về thú y đối với vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật. Các tổ chức, cá 
nhân có hoạt động liên quan vùng an toàn dịch bệnh động vật phải chấp hành các quy 
định của pháp luật về thú y đối với vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật. Chính phủ có 
chương trình quốc gia về khống chế, thanh toán một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm của 
động vật, nhằm bảo đảm hiệu quả khống chế và thanh toán các dịch bệnh nguy hiểm của 
động vật và những bệnh từ động vật lây sang người, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu động vật 
và sản phẩm động vật, bảo đảm giảm dần số ổ dịch, số động vật mắc bệnh, tiến tới thanh 
toán dịch bệnh. Trong việc xây dựng chương trình này Chính phủ có chỉ đạo các các bộ, 
ngành có liên quan phối hợp Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản trong việc xây 
dựng chương trình quốc gia về khống chế, thanh toán dịch bệnh động vật. Bộ Nông 
nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản xây dựng chương trình quốc gia về khống chế, thanh 
toán dịch bệnh động vật trình Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo thực hiện chương trình. 
Các cơ quan quản lý nhà nước về thú y ở trung ương (Cục Thú y đối với dịch bệnh động 
vật trên cạn và Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản đối với dịch 
bệnh động vật dưới nước và lưỡng cư), UBND các cấp, Chi cục Thú y và Chi cục Quản 
lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản, các tổ chức và cá nhân chăn nuôi động 
vật tùy theo quyền hạn và trách nhiệm của mình có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện, 
thanh tra, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện, tổ chức thực hiện, tuyên truyền phổ biến 
hướng dẫn và thực hiện các biện pháp khống chế, thanh toán dịch bệnh động vật. 
Khi dịch đã xuất hiện, muốn phòng bệnh lây lan rộng thì cần thực hiện các biện 
pháp chống dịch nhằm dập tắt dịch, bao gồm, một mặt, tiêu diệt nguồn bệnh (điều trị 
bệnh cho các động vật bệnh hoặc giết hủy hay giết mổ bắt buộc động vật bệnh) và, mặt 
khác, phòng bệnh cho các động vật chưa mắc bệnh. Các biện pháp phòng dịch và biện 
pháp chống dịch liên quan mật thiết với nhau. Các biện pháp tiêu diệt nguồn bệnh một 
mặt là để thanh toán dịch nhưng đồng thời cũng bảo đảm cho động vật khỏe không bị lây 
bệnh nên phòng ngừa dịch lan rộng. Các biện pháp phòng bệnh truyền nhiễm ở nước ta 
đã được quy định trong Điều lệ phòng chống dịch bệnh cho gia súc và gia cầm trước đây 
và Pháp lệnh thú y hiện nay, cũng như các văn bản liên quan do Nhà nước ban hành. 
Để thực hiện các biện pháp phòng dịch cần thực hiện những biện pháp tổng hợp 
tác động đến nhiều khâu của quá trình phát sinh dịch: đối với nguồn bệnh (vật mang 
trùng khi chưa có dịch, cũng như vật mang trùng và vật bệnh khi có dịch), đối với đường 
truyền lây và đối với động vật mẫn cảm. 
2. Đối sách đối với nguồn bệnh 
2.1. Với vật mang trùng 
Đối với nguồn bệnh phải tiêu diệt hoặc hạn chế nguồn bệnh gieo rắc mầm bệnh ra 
ngoài. Khi chưa có dịch phát ra, nguồn bệnh chỉ có thể là những vật mang trùng. Khi đó, 
đối với vật mang trùng cần phải thực hiện các biện pháp dưới đây. 
Phát hiện sớm, chủ động và tích cực. Phải có kế hoạch định kỳ phát hiện vật 
mang trùng. Phát hiện động vật mang trùng rất khó. Có thể dùng phương pháp vi sinh vật 
học để xét nghiệm các chất bài tiết, bài xuất,... nhưng kết quả thường không chắc chắn vì 
con vật mang trùng chỉ bài xuất mầm bệnh một cách định kỳ. Có thể dùng phương pháp 
huyết thanh học phát hiện kháng thể và kháng nguyên đặc hiệu trong một khoảng thời 
gian nhất định. Tuy nhiên, cần chú ý rằng các phản ứng huyết thanh học phát hiện kháng 
thể tuy dễ thực hiện nhưng kết quả thường khó giải thích. Phát hiện kháng nguyên đặc 
hiệu thường dễ giải thích hơn nhưng việc thực hiện thường khó hơn do phản ứng thường 
có độ nhạy thấp hơn và sự bài xuất mầm bệnh (kháng nguyên) từ vật sống mang trùng 
không phải khi nào cũng xảy ra. Mầm bệnh có thể phát hiện một cách tương đối chắc 
chắn hơn nhờ phương pháp chẩn đoán dị ứng đối với những bệnh có phản ứng dị ứng như 
lao, tỵ thư, sẩy thai truyền nhiễm,... Phương pháp cho kết quả nhanh và nhạy hơn cả là 
các phương pháp phân tích axit nucleic đặc hiệu mầm bệnh (PCR, RT-PCR, PCR-
RFLP,...) nhưng cũng còn nhiều trở ngại do sự bài xuất mầm bệnh từ vật mang trùng 
không ổn định, xét nghiệm lại đòi hỏi tuyệt đối không được bị ô nhiễm từ những xét 
nghiệm cũ trước đó và, vì vậy, thường đắt tiền. Vì vậy, phát hiện kháng nguyên bằng các 
phản ứng huyết thanh học trực tiếp từ bệnh phẩm hoặc từ lứa cấy vi sinh vật mầm bệnh 
đã được phân lập còn tiếp tục có thể là biện pháp được lựa chọn trong điều kiện hiện nay. 
Cách ly triệt để những con vật đã phát hiện có mang trùng. Ở nhiều nước, những 
con vật có phản ứng dương với bệnh lao, sẩy thai truyền nhiễm, tỵ thư được tập trung 
thành đàn và nuôi riêng trong những trang trại cách ly. Nếu số lượng động vật mang 
trùng ít thì có thể giết thịt. Việc cách ly con vật mang trùng với con khỏe ở nước ta còn 
gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, các cơ sở chăn nuôi tập trung bắt buộc phải có khu 
chuồng nuôi cách ly. Nông hộ có thể vận dụng biện pháp cách ly gián tiếp như khi mua 
thịt chợ đưa về nhà trong mọi trường hợp loại bỏ một cách triệt để lá hoặc giấy bao gói 
hoặc thực phẩm nguồn gốc động vật khác mua từ chợ,... khỏi sự tiếp xúc với gia súc, gia 
cầm của mình. Cần nghi ngờ rằng thịt có thể được lấy từ động vật không sạch bệnh. 
Điều trị dự phòng những con vật mang trùng, nhất là những động vật quý đắt tiền. 
Một số con vật mang trùng có khi có thể tự nhiên lành bệnh (bệnh sẩy thai truyền nhiễm), 
một số có thể phát hiện triệu chứng và phải xử lý. Với những bệnh thường có hiện tượng 
mang trùng, nếu không có phương pháp tốt để phát hiện mầm bệnh khi động vật còn sống 
thì cần có biện pháp giải quyết ngay những con mắc bệnh khi xảy ra dịch (giết mổ bắt 
buộc). Đối với những con mang trùng là dã thú hoặc côn trùng, ve bét,... thì phải dùng 
mọi biện pháp tiêu diệt và có biện pháp ngăn ngừa chúng tiếp xúc với gia súc, gia cầm. 
Với động vật mang trùng một số bệnh truyền nhiễm có tính lây thấp, ẩn tính và có 
thể tái phát bất thường do genom virut tái tổ hợp vào nhiễm sắc thể ký chủ (như bệnh 
bạch huyết bò,...) và những biện pháp điều trị không đưa lại kết quả mà chỉ làm duy trì 
mầm bệnh (hay nguồn bệnh) trong tập đoàn thì cần thực hiện biện pháp giết mổ dần (giết 
hủy chậm) và không sử dụng động vật vào mục đích lấy giống. 
2.2. Các biện pháp đối với ổ dịch 
 Các biện pháp chống dịch truyền nhiễm được thực hiện ở ổ dịch thường nhằm 
mục đích tiêu diệt nguồn bệnh, đồng thời phòng ngừa mầm bệnh lây lan sang những động 
vật khỏe, không cho ổ dịch lan rộng hoặc khởi nguồn ổ dịch khác. 
 Các biện pháp chống dịch bao gồm phát hiện bệnh, tiêu diệt nguồn bệnh (điều trị 
hoặc giết hủy động vật bệnh, hoặc áp dụng song song cả hai biện pháp), làm suy yếu hoặc 
tiêu diệt các nhân tố trung gian truyền bệnh và làm tăng sức đề kháng của cơ thể động 
vật. Các biện pháp đó cần được thực hiện khẩn trương, cùng một lúc thì mới đạt mục đích 
dập tắt dịch. 
a. Đối với động vật bệnh 
Phải phát hiện sớm, khai báo nhanh, cách ly kịp thời và điều trị triệt để hoặc giết 
hủy hay giết mổ bắt buộc theo hướng dẫn của chuyên môn thú y. 
 Phát hiện bệnh sớm: Phải dùng mọi biện pháp chẩn đoán để phát hiện bệnh đúng 
và sớm. Nếu chẩn đoán còn nghi ngờ, chưa có điều kiện xác định bệnh chắc chắn thì 
cũng phải có kết luận sơ bộ chẩn đoán và có biện pháp đề phòng bệnh lây lan. Nguyên 
tắc cần tuân thủ đối với dịch bệnh truyền nhiễm là một khi có con vật sốt chưa rõ nguyên 
nhân phải nghi là nguồn bệnh truyền nhiễm và phải cách ly. Thà chẩn đoán nhầm một 
bệnh không truyền nhiễm là bệnh truyền nhiễm còn hơn là nhầm một bệnh truyền nhiễm 
là bệnh không truyền nhiễm. Tuy nhiên, phải dùng mọi biện pháp chẩn đoán đúng bệnh 
thì mới đề ra biện pháp chống dịch có hiệu quả, đặc biệt là tránh gây hoang mang không 
đáng có và trở ngại sinh hoạt bình thường đối với xã hội liên quan vấn đề xử lý dịch bệnh 
truyền nhiễm nguy hiểm. Phải sử dụng nhiều phương pháp chẩn đoán: lâm sàng, dịch tễ 
học và chẩn đoán xét nghiệm. 
 - Chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào triệu chứng lâm sàng điển hình của các bệnh động 
vật đã được mô tả trước đây để đối chiếu và quy thuộc mà xác định nguyên nhân của 
trường hợp bệnh lý đang tiếp cận. Phương pháp chẩn đoán này dễ nhầm lẫn vì nhiều bệnh 
khác nhau có thể có triệu chứng lâm sàng giống nhau hoặc khi ở đầu vụ dịch triệu chứng 
bệnh thường không điển hình. 
 - Chẩn đoán dịch tễ học: Tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện xuất hiện dịch. Cần 
phải điều tra kỹ để tìm nguồn bệnh, nguồn lây lan, hoàn cảnh động vật mắc bệnh, lịch sử 
cảm nhiễm (trước đó con bệnh đã tiếp xúc với những loại súc vật nào, chăn dắt ở đâu, đã 
đi qua những địa phương nào có dịch), điều kiện vệ sinh động vật ra sao, đã tiêm phòng 
chưa, tiêm vacxin gì. Ngoài ra, phải tìm hiểu những con vật có tiếp xúc với con bệnh. 
 Điều tra dịch tễ học kết hợp với những triệu chứng lâm sàng có thể giúp chẩn 
đoán bệnh nhưng có khi chưa chắc chắn nên còn phải dùng phương pháp chẩn đoán xét 
nghiệm. 
 - Chẩn đoán xét nghiệm: Nên tiến hành bằng việc phối hợp nhiều phương pháp 
khác nhau (vi sinh vật học, huyết thanh học, di truyền học phân tử, sinh vật học,...). 
 Bệnh phẩm lấy từ động vật bệnh, nghi bệnh hoặc động vật chết phải phù hợp với 
yêu cầu xác định bệnh. Cách lấy bệnh phẩm, cách bao gói và gửi bệnh phẩm phải theo 
đúng yêu cầu kỹ thuật để bảo đảm không gieo rắc mầm bệnh ra ngoài, bảo đảm an toàn 
cho người lấy và bảo đảm chẩn đoán chính xác. Bệnh phẩm phải được gửi đến cơ quan 
xét nghiệm càng nhanh càng tốt. 
 Để xác định một số bệnh truyền nhiễm, cần tiến hành kết hợp các phương pháp 
chẩn đoán nói trên. 
 Cách ly kịp thời: Sau khi phát hiện có con vật bị bệnh hoặc con nghi mắc bệnh 
phải cách ly ngay. Những con nghi mang mầm bệnh phải nhốt riêng để tránh lây lan. 
Động vật được cách ly ở nơi chữa bệnh hoặc nhà cách ly riêng. 
 Các cơ sở chăn nuôi động vật tập trung phải có hàng rào bao quanh bảo đảm ngăn 
chặn được người và động vật xâm nhập, bảo đảm các điều kiện vệ sinh thú y và phải có 
nhà cách ly. Nhà cách ly phải có cống rãnh tiêu độc và xa chuồng nuôi động vật và nhà ở 
ít nhất 50 mét. Phải cử người chăm sóc riêng động vật cách ly. Họ phải có quần áo riêng 
và những phương tiện bảo hộ cần thiết, có tinh thần trách nhiệm và ý thức vệ sinh phòng 
bệnh cao. Khi cho động vật cách ly ăn uống hoặc quét dọn, tiêu độc chuồng,... phải giữ 
gìn cẩn thận tránh để bệnh lây từ động vật sang người. Phải cấm người ra vào chuồng 
cách ly trừ những người chăm sóc và chữa bệnh. Trước cửa ra vào khu vực phải có hố 
vôi tiêu độc, trước cửa ra vào chuồng cần có xô (chậu) chứa dung dịch tiêu độc để người 
vào hoặc ra khỏi khu cách ly mỗi khi cần phải nhúng ủng bảo hộ, có không gian đệm để 
thay quần áo bảo hộ riêng cho từng khu vực: khu cách ly và khu bình thường. Ở không 
gian đệm này cần bố trí dung dịch khử trùng (cồn ethylic 70°,...) và đèn tử ngoại (nếu có 
điều kiện) để khử trùng tay, quần áo và bao gói dụng cụ điều trị và lấy mẫu bệnh phẩm, 
bao bì thức ăn động vật,... mỗi khi cần đưa vào hoặc ra khỏi khu vực cách ly. Những 
người có trách nhiệm chăm sóc, lấy mẫu bệnh phẩm và điều trị bệnh cho động vật ở nhà 
cách ly hay khu cách ly cần tránh đi lại nhiều không cần thiết giữa khu cách ly với khu 
bình thường. Nếu có nhu cầu đi lại giữa hai khu vực phải áp dụng biện pháp tiêu độc 
(nhúng ủng vào dung dịch tiêu độc, thay quần áo bảo hộ khi ở không gian đệm, phun dịch 
sát trùng hoặc chiếu tia cực tím lên dụng cụ mang theo để lấy mẫu bệnh phẩm, tiêm 
thuốc,...) tránh đưa những vật có thể mang mầm bệnh từ khu vực cách ly ra khu vực an 
toàn. 
 Điều trị triệt để: Phải điều trị triệt để những con bệnh tiên lượng tốt ở trong ổ dịch 
cho đến khi lành bệnh và không để chúng trở thành vật mang trùng. Nếu thấy khả năng 
điều trị không khỏi (tiên lượng xấu) thì phải xử lý ngay. Cách xử lý tùy theo loại bệnh: có 
thể giết chết đem chôn hoặc đốt (giết hủy), hoặc giết thịt luộc rán làm thực phẩm hoặc 
chế biến thành công nghệ phẩm và thức ăn gia súc (giết thịt tận dụng). Khi xử lý cần phải 
chú ý tránh lây lan bệnh. 
b. Đối với động vật nghi lây bệnh 
Phải điều tra để phát hiện những con tiếp xúc với con bệnh do nuôi chung, chăn 
dắt chung hoặc tiếp xúc với sinh vật môi giới và ngoại cảnh chứa mầm bệnh. Trên 
nguyên tắc, mọi súc vật có thể nhiễm bệnh (súc vật mẫn cảm) ở trong một ổ dịch đều 
phải được coi là con nghi đã bị lây, vì chúng nếu không tiếp xúc với con bệnh thì cũng 
tiếp xúc với ngoại cảnh chứa mầm bệnh. Những loại súc vật trên phải được cách ly với 
thời gian nung bệnh dài nhất có thể vận dụng. Phải khám nghiệm lâm sàng, xét nghiệm, 
tiêm phòng khẩn cấp hoặc điều trị dự phòng và tiến hành tiêu độc thích hợp. 
c. Xử lý tình huống dịch bệnh động vật 
Khai báo dịch khẩn cấp: Mọi người, trước hết là chủ vật nuôi, tổ chức và cá nhân 
chăn nuôi động vật, người áp tải động vật trên đường vận chuyển, đều có nhiệm vụ và có 
quyền khai báo dịch bằng mọi phương tiện nhanh chóng nhất với nhân viên thú y, cơ 
quan thú y hoặc cơ quan chính quyền gần nhất. Nhân viên thú y và cơ quan thú y khi 
được thông báo về tình hình động vật phát bệnh, chết bệnh hoặc có dấu hiệu bệnh thì phải 
nhanh chóng chẩn đoán xác định bệnh, nếu xác định bệnh truyền nhiễm thuộc danh mục 
bệnh phải công bố dịch thì phải hướng dẫn chủ vật nuôi, chủ sản phẩm động vật thực 
hiện các biện pháp xử lý dịch bệnh như không bán, không giết mổ và không vứt động vật, 
xác và sản phẩm động vật ra môi trường mà phải cách ly động vật mắc bệnh, bố trí người 
chăm sóc động vật, hạn chế lưu thông động vật và sản phẩm động vật, chôn hoặc đốt xác 
động vật và chất thải của động vật bệnh, vệ sinh khử trùng cơ sở (chăn nuôi, giết mổ, 
phương tiện vận chuyển,...). Nhân viên thú y, cơ quan thú y tùy theo tính chất và mức độ 
bệnh dịch mà báo cáo Ủy ban nhân dân (UBND) cùng cấp để thực hiện biện pháp phòng 
chống dịch bệnh đối với khu vực đó, đồng thời báo cáo cơ quan thú y cấp trên trực tiếp. 
Khi được tin ở địa phương có dịch hoặc nghi có dịch thuộc danh mục bệnh phải công bố 
dịch, UBND cấp xã phải báo cáo ngay cho UBND cấp huyện biết. UBND cấp huyện phải 
cử ngay cán bộ thú y về tận nơi kiểm tra xác minh. Kết quả kiểm tra phải báo cáo lại cho 
UBND huyện và Chi cục thú y (hoặc Chi cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú 
y thủy sản, nếu bệnh dịch xảy ra ở động vật dưới nước và lưỡng cư) biết để kiểm tra xác 
nhận dịch, nếu có dịch thì các cơ quan này quyết định các biện pháp cần thiết để bao vây 
và dập tắt dịch, đồng thời phải báo cáo cho sở Nông nghiệp và PTNT và UBND tỉnh hay 
thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh) biết. 
 Khi gặp trường hợp có dịch hoặc nghi là dịch nguy hiểm tuy chưa biết chính xác 
là bệnh gì, chính quyền địa phương vẫn phải áp dụng ngay những biện pháp đầu tiên như 
tạm thời cách ly con vật bệnh, cấm vận chuyển, cấm bán chạy, cấm mổ thịt, tiêu độc để 
hạn chế lây lan. 
 Khi dịch bệnh của động vật trên cạn xảy ra mà Chi cục thú y chẩn đoán là bệnh 
thuộc danh mục phải công bố dịch, hoặc nghi ngờ bệnh thuộc danh mục phải công bố 
dịch thì Chi cục thú y báo cáo để UBND cấp tỉnh thông báo khu vực hạn chế lưu thông 
động vật và sản phẩm động vật, đồng thời báo ngay Cục thú y. Trong trường hợp Chi cục 
thú y còn nghi ngờ nguyên nhân gây bệnh thì gửi bệnh phẩm để Cục thú y tiến hành xác 
định bệnh. Nghiêm cấm việc đưa vào hoặc mang ra khỏi khu vực hạn chế lưu thông loài 
động vật dễ nhiễm và sản phẩm động vật mang mầm bệnh. 
 Công bố dịch: Khi có dịch bệnh nguy hiểm của động vật xảy ra ở vùng biên giới 
giáp Việt nam thì Cục thú y phải báo cáo để UBND cấp tỉnh vùng biên giới đó quyết định 
công bố vùng bị dịch uy hiếp và tại đó phải thực hiện các biện pháp như: quy định cửa 
khẩu, số và loài động vật được phép thông quan, cấm đưa vào lãnh thổ Việt Nam những 
động vật bệnh và dễ nhiễm bệnh (động vật mẫn cảm) và sản phẩm động vật mang mầm 
bệnh đó, chỉ đạo thực hiện vệ sinh tiêu độc, khử trùng cho người và các loại phương tiện 
vận chuyển qua cửa khẩu, xác định vùng bị dịch uy hiếp hay vùng đệm (để thành lập 
vành đai bảo vệ) trong phạm vi 5 km tính từ biên giới và thực hiện các biện pháp như 
vùng bị dịch uy hiếp. 
Khi có báo cáo bằng văn bản của UBND cấp huyện về tình hình diễn biến dịch 
bệnh và văn bản kết luận của Chi cục hoặc Cục thú y (hoặc tương đương đối với động vật 
dưới nước và lưỡng cư) đã xác định dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm phải công bố 
dịch, UBND cấp tỉnh ra lệnh công bố dịch. Lệnh công bố dịch phải ghi rõ tên bệnh và 
những vùng (địa phương) có dịch. 
 Tùy theo tính chất bệnh, tình hình địa lý, tình hình diễn biến ổ dịch mà quyết định 
vùng có dịch và vùng nguy cơ dịch (vùng dịch uy hiếp), không công bố tràn lan, chỉ 
khoanh vùng cần thiết để bao vây dập tắt dịch. Có thể công bố dịch ở một trại chăn nuôi, 
một thôn, một xã hoặc nhiều xã, một huyện hoặc nhiều huyện trong tỉnh. 
Khi ra quyết định công bố dịch, chủ tịch UBND cấp tỉnh phải báo cáo với Bộ 
trưởng Nông nghiệp và PTNT, đồng thời báo cáo lên Chính phủ. Khi có quyết định công 
bố dịch, chủ tịch UBND cấp tỉnh nơi có dịch có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo các ngành 
các cấp phối hợp với các tổ chức xã hội trong địa phương và huy động nhân lực, vật lực 
theo pháp luật để thực hiện các biện pháp chống dịch. Việc xác định giới hạn vùng có 
dịch và lập vành đai bảo vệ quanh vùng có dịch cũng do UBND cấp tỉnh quyết định và 
thông báo cho cấp dưới và các cơ quan hữu quan. 
Tùy tính chất và quy mô của dịch mà thành lập Ban chỉ đạo chống dịch cấp xã, 
huyện và tỉnh, đồng thời thành lập Ban chống dịch các cấp với thành phần gồm lãnh đạo 
chính quyền (phó chủ tịch tỉnh, huyện phụ trách nông nghiệp), lãnh đạo ngành nông 
nghiệp (giám đốc hoặc phó giám đốc Sở, trưởng hoặc phó phòng phụ trách nông nghiệp 
huyện), đại diện ngành thú y (chi cục trưởng, trạm trưởng, nhân viên thú y xã), đại diện 
công an (ủy viên), đại diện quản lý thị trường (ủy viên), có thể có thêm chủ cơ sở chăn 
nuôi tập trung, chủ nhiệm hợp tác xã, đại diện ngành y tế và đại diện thông tin tuyên 
truyền (các ủy viên). Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân công, Chi cục thú y 
chỉ đạo lực lượng thú y địa phương tham gia chống dịch, chịu trách nhiệm về chuyên 
môn kỹ thuật thú y trong công tác chống dịch, đồng thời phải báo cáo diễn biến dịch và 
kết quả chống dịch 10 ngày một lần cho UBND cấp tỉnh và Cục thú y cho đến khi hết 
dịch. 
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thủy sản công bố dịch, chỉ đạo và tổ 
chức chống dịch trong trường hợp dịch bệnh động vật thuộc danh mục phải công bố dịch 
xảy ra ở hai tỉnh trở lên. Thủ tướng Chính phủ công bố dịch, chỉ đạo và tổ chức chống 
dịch khi có dịch bệnh nguy hiểm của động vật có khả năng lây sang người theo đề nghị 
của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT hoặc Bộ Thủy sản. 
 Pháp lệnh Thú y quy định phòng chống dịch bệnh là trách nhiệm của mọi cấp, 
mọi ngành và toàn dân. Ở vùng có dịch trong quyết định công bố dịch phải đặt trạm gác 
có lực lượng công an và thú y hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc vận chuyển động vật; 
cơ quan nhà nước về quản lý thú y phải đặt biển báo nơi có dịch; trong khu vực có dịch 
phải hạn chế việc lưu thông động vật và sản phẩm động vật, vệ sinh tiêu độc khử trùng 
chuồng nuôi, vật dùng cho chăn nuôi, chất thải động vật bệnh và môi trường bị ô nhiễm. 
Đồng thời cơ quan thú y tiến hành kiểm tra phân loại động vật dễ nhiễm với bệnh đã công 
bố để thực hiện việc cách ly động vật và áp dụng các biện pháp vệ sinh thú y khác. Trong 
vùng dịch tất cả các động vật mắc bệnh, cảm nhiễm mầm bệnh và nghi nhiễm phải nuôi 
riêng trong suốt thời gian chữa bệnh, không được thả trên bãi chăn chung, đồng thời bố 
trí người chăm sóc và dụng cụ nuôi riêng cho động vật bệnh, chôn hoặc đốt xác, xử lý súc 
vật chết, tiêu độc chuồng trại, tiêu hủy thức ăn thừa của động vật bệnh hoặc chết, không 
đưa (và cấm đưa) gia súc, gia cầm dễ nhiễm bệnh ra và vào hoặc đi qua ổ dịch, đình chỉ 
vận chuyển mua bán, cấm mổ thịt (trừ trường hợp có thể giết thịt tận dụng theo quy định 
dưới sự hướng dẫn của ngành thú y), canh gác cổng ra vào ổ dịch, cấm người không phận 
sự ra vào ổ dịch, vùng có dịch. Phải chữa bệnh và tiêm chống dịch ở ổ dịch và tiêm 
phòng dịch ở vùng nguy cơ dịch. Dụng cụ vật liệu dùng cho động vật bệnh phải qua xử lý 
tiêu độc cho đến khi hết dịch. Trong trường hợp bắt buộc phải vận chuyển động vật dễ 
nhiễm, thức ăn, chất thải qua vùng có dịch phải đi theo tuyến đường quy định và không 
được dừng lại. 
 Trong vùng dịch uy hiếp trong phạm vi 30 km tùy theo từng bệnh tính từ chu vi 
vùng có dịch phải thực hiện hạn chế việc lưu thông, vận chuyển, mua bán, trao đổi động 
vật và sản phẩm động vật dễ nhiễm với dịch bệnh đã công bố. Tại vùng này cơ quan thú y 
phải tăng cường kiểm soát việc vận chuyển động vật, sản phẩm động vật và kiểm tra phát 
hiện kịp thời động vật mắc bệnh. Khẩn cấp tổ chức tiêm phòng bắt buộc hoặc áp dụng 
các phương pháp phòng bắt buộc khác cho động vật mẫn cảm với bệnh dịch đã công bố. 
Nhiều trường hợp phải giết mổ bắt buộc ở một nơi quy định xa chuồng trại chăn nuôi để 
hạn chế sự lây lan dịch bệnh theo quyết định của UBND cấp tỉnh do Chi cục thú y đề 
nghị. Khi đó sản phẩm giết mổ không được sử dụng dưới dạng tươi sống mà phải dưới 
dạng chế biến chín hoặc qua xử lý nhiệt để thu sản phẩm tận dụng làm thức ăn gia súc, 
đồng thời phải xử lý tiêu độc, đốt và chôn phân rác, chất bài xuất, sản phẩm động vật 
không sử dụng được và tiêu độc cơ sở giết mổ cũng như phương tiện vận chuyển động 
vật giết mổ bắt buộc tránh mầm bệnh lây lan. Phương tiện vận chuyển phải có sàn kín 
tránh làm rơi vãi các chất thải dọc đường đi. 
 UBND cấp tỉnh công bố hết dịch theo đề nghị của Chi cục thú y (hoặc tương 
đương đối với thủy sản) sau khi Chi cục đã kiểm tra điều kiện công bố hết dịch, báo cáo 
Cục thú y (hoặc tương đương đối với thủy sản) và Sở Nông nghiệp và PTNT (hoặc Sở 
Thủy sản) và đã được Cục Thú y (hoặc tương đương đối với thủy sản) đồng ý. Chỉ được 
công bố hết dịch động vật trên cạn khi có đủ ba điều kiện sau: 1) sau con chết, giết mổ 
bắt buộc hoặc con lành bệnh cuối cùng từ 15 đến 30 ngày (dài ngắn tùy loại bệnh, theo 
quy định của Bộ Nông nghiệp và PTNT) mà không thấy con nào bị mắc bệnh và chết với 
dịch đã công bố nữa, 2) toàn bộ đàn gia súc mẫn cảm ở trong ổ dịch và vành đai bảo vệ 
đã được tiêm phòng hoặc áp dụng các biện pháp phòng khác và đủ thời gian miễn dịch 
đối với bệnh đó và 3) đã tổng vệ sinh tiêu độc toàn bộ ổ dịch đảm bảo yêu cầu vệ sinh thú 
y. 
 Đối với dịch trong phạm vi từ hai tỉnh trở lên, Cục Thú y (hoặc tương đương đối 
với thủy sản) sau khi kiểm tra đủ điều kiện công bố hết dịch thì đề nghị Bộ trưởng Bộ 
Nông nghiệp và PTNT (hoặc Bộ Thủy sản) công bố hết dịch, hoặc 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 c4_1578 (1).pdf c4_1578 (1).pdf