Theo các tài liệu xưa, dàn nhạc cổ Việt Nam đã có từ rất lâu đời. Đại Việt 
sử ký toàn thư chép: “Trước đây (1437), Lương Đăng và Nguyễn Trãi vâng mệnh 
định nhã nhạc. Nhạc tấu trên nhà có tám thanh như trống treo lớn, khánh, chuông, 
đàn cần, đàn sắt, kèn, sáo quản, thược, chúc, ngữ, huân, trì Nhạc tấu dưới nhà 
thì có phương hưởng treo, không hầu, trống quản cổ, kèn quản dịch”. Còn trong 
Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ chép: “Khoảng năm Hồng Đức nhà Lê (1470 
– 1497) đặt ra hai bộ Đồng văn và Nhã nhạc. Bộ Đồng văn thì chuyên ghép âm 
luật để hòa nhạc, bộ Nhã nhạc thì chuyên chú về giọng người, trọng về tiếng hát, 
cả hai đều thuộc quyền quan thái thường coi xét. Đến như âm nhạc dân gian thì có 
đặt ty giáo phường coi giữ “ “Từ đời Quang Hưng (1578 – 1599) về sau, hai bộ 
Đồng văn Nhã nhạc có dùng một loại trống lớn Ngưỡng thiên và một cái kèn lớn 
bằng trúc nạm vàng, cùng là cái long sinh long phách và các loại đàn ba dây, bốn 
dây hoặc mười lăm dây, cái ống sáo, cái trống cảnh một mặt, cái trống tang mỏng 
sơn son thiếp vàng, cái phách xâu tiền”. 
              
                                            
                                
            
 
            
                
17 trang | 
Chia sẻ: Kiên Trung | Ngày: 13/01/2024 | Lượt xem: 1967 | Lượt tải: 0
              
            Nội dung tài liệu Quá trình hình thành nghệ thuật sân khấu cải lương: Từ ca ra bộ đến hình thành (Phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa Đác-Uyn, với những Xpen-xơ, Hớt-xlây, những lý luận về xã hội học với 
những Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ, Von-te  đã lóe lên trong đầu óc những nhà yêu 
nước Việt Nam đang đi tìm đường cứu nước, biến thành những gợi ý đầy hấp dẫn 
để giải đáp các vấn đề lịch sử đang đặt ra. Họ đã đón nhận những lý luận chính trị, 
tư tưởng triết học và những quan điểm đạo đức đó như là một thứ vũ khí mới để 
ứng dụng trong cuộc chiến đấu mới của mình. Từ đó họ đã xốc lên được phong 
trào cứu nước mang màu sắc của thời đại mới, với cái tên “Cải cách duy tân” 
(1906 – 1908). 
Đầu năm 1905, phong trào Đông Du sang Nhật đầu tiên của Phan Bội 
Châu, Tăng Bạt Hổ, kế đó là một số chí sĩ khác trong đó có Cường Để. Năm 1907 
Phan Bội Châu soạn ra bài văn “Ai cáo Nam Kỳ phụ lão” để làm tài liệu vận động 
đồng bào Nam Kỳ. Phong trào Đông Du phát triển mạnh mẽ ở Nam Kỳ, vào 
khoảng 1907 – 1908, con số du học sinh cả nước ước chừng 200, riêng Nam Kỳ đã 
chiếm hơn 100. 
Sau khi tiếp xúc với Phan Bội Châu, ở Hương Cảng, Trần Chánh Chiếu đại 
biểu cho tầng lớp tư sản dân tộc mới lên có mâu thuẫn quyền lợi với tư bản Pháp 
và lợi ích còn ít nhiều gắn bó với dân tộc, với nhân dân, đã đứng lên cổ động công 
khai ở Nam Kỳ một phong trào gọi là Cuộc Minh Tân (Cuộc tức là công cuộc, 
Minh Tân tức là minh đức, tân dân). Ông đề ra những công việc phải làm theo 
gương Duy Tân của Trung Quốc: Phát triển trường dạy học, phát triển công nghệ 
trong nước, mở mang trường quân sự dạy thủy quân, lục quân. 
Đầu năm 1908, ông đứng ra thành lập công ty Nam Kỳ Minh Tân Công 
Nghệ nêu rõ kế hoạch hoạt động là lập lò chỉ (máy kéo sợi bằng chỉ), lò dệt, lò xà 
bông, thuộc da và làm đồ pha-lê. Ngoài công ty lớn trên đây, đáng chú ý là hai 
khách sạn hoạt động với mục đích là làm kinh tài cho phong trào, đồng thời cũng 
là nơi tụ họp để che mắt bọn cầm quyền thực dân: Minh Tân khách sạn ở Mỹ Tho, 
Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn. Cũng cần kể đến 15 tổ chức khác đã hưởng ứng 
phong trào rải rác ở Sài Gòn và các tỉnh ở Nam Kỳ, từ Biên Hòa đến Rạch Giá 
nhằm mua bán lúa gạo, lập quán ăn, lập nhà in hoặc nhằm mục đích cho vay nhẹ 
lãi, lập công ty y dược để bào chế thuốc bắc theo hình thức Âu dược. Lại còn sáng 
kiến lập công ty tàu thủy đưa đò để yểm trợ phong trào một tờ báo công khai ra 
đời lấy tên là Lục Tỉnh Tân Văn. 
Tháng 9-1908, xà bông của công ty Minh Tân lại tung ra thị trường, cạnh 
tranh rất hiệu quả với xà bông của ngoại quốc. Đồng thời Lục Tỉnh Tân Văn 
cũng có nhiều bài công kích chế độ thuộc địa, kêu gọi đồng bào đoàn kết chống 
quan lại tham nhũng khiến thực dân chú ý. 
Cuối tháng 10-1908, ông Tổng lý là Trần Chánh Chiếu bị bắt nên công ty 
Minh Tân ngừng hoạt động và giải tán, Lục Tỉnh Tân Văn cũng bị rút giấy phép. 
Sau vụ Hà thành đầu độc tháng 6-1908, thực dân Pháp đàn áp trắng trợn, 
phong trào Duy Tân bị tan rã. Nhưng Phan Bội Châu, Cường Để vẫn tiếp tục hoạt 
động. Năm 1911, cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc giành thắng lợi đã đem 
lại phấn khởi cho các nhà cách mạng Việt Nam và cho họ có điều kiện hoạt động 
dễ dàng hơn trên đất Trung Quốc. Năm 1912, Việt Nam Quang Phục Hội được 
thành lập tại Hương Cảng do Cường Để làm Hội trưởng và Phan Bội Châu làm 
Tổng lý. Khi cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất sắp nổ ra, Cường Để qua Đức 
với Đỗ Văn Y và Trương Duy Toản định dựa vào Đức đánh Pháp nhưng cuộc vận 
động đó không có kết quả. Đức không chịu giúp đỡ Cường Để mặc dù lúc đó Đức 
là kẻ thù chính của Pháp. 
Cũng trong thời kỳ Đại chiến thế giới lần thứ nhất, nhiều người yêu nước 
Việt Nam cho rằng nhân lúc Pháp đang mắc đánh nhau với Đức ở Châu Âu mà 
đứng lên đánh đuổi bọn thực dân thuộc địa đòi lại đất nước. Đêm ngày 23 rạng 24-
3-1913, đã có cuộc nổi dậy của Phan Xích Long nhằm đánh chiếm Sài Gòn nhưng 
thất bại. Phan Xích Long chạy ra Phan Thiết nhưng bị bắt ở đó. Đêm 14 rạng 15-
2-1916 lại nổ ra cuộc đánh khám lớn Sài Gòn với mục đích giải phóng những 
chính trị phạm trong đó có Phan Xích Long. Nhưng cuộc nổi dậy này cũng bị dập 
tắt vì lực lượng quá ô hợp và non yếu. 
Cho tới cuộc nổi dậy của Phan Xích Long, những phong trào yêu nước do 
tầng lớp phong kiến tư sản hóa và tầng lớp nông dân lãnh đạo đều lần lượt thất bại. 
“Vào mấy chục năm đầu của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng về đường lối cách 
mạng diễn ra sâu sắc nhất  Cuộc khủng hoảng về đường lối thực chất là cuộc 
khủng hoảng về vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp tiên tiến trong xã hội  
Trước năm 1920, chưa một người yêu nước nào của nước ta nhìn thấy ánh sáng 
giải phóng trong đêm tối nô lệ của dân tộc.” (50 năm hoạt động của Đảng Cộng 
sản Việt Nam, Nhà xuất bản Sự thật, từ trang 22). 
Trước tình hình đó, một số người yêu nước từng tham gia các phong trào 
Đông Du và Duy Tân, nhưng sau những thất bại liên tiếp về chính trị đã cảm thấy 
mệt mỏi, nên chuyển hướng qua hoạt động cải cách về văn hóa xã hội, trong đó có 
cả mặt cải cách sân khấu. 
c) Về văn hóa xã hội: 
Từ năm 1865, trước khi chiếm trọn Nam Kỳ, thực dân Pháp đã cho xuất 
bản Gia Định báo bằng chữ quốc ngữ. Tuy ban đầu là một thứ công báo của chính 
quyền xâm lược, tờ Gia Định báo cũng góp phần vào việc phổ biến chữ quốc ngữ 
ở Nam Kỳ. Năm 1868, xuất hiện Phan Yên báo do Diệp Văn Cương làm chủ bút, 
nhưng sau bị đóng cửa vì những bài có tính chất chính trị, công khai chỉ trích 
chánh sách của thực dân Pháp. Năm 1901, có tờ Nông Cổ Mín Đàm do Lương 
Khắc Minh rồi Nguyễn Chánh Sắt làm chủ bút. Năm 1907 có tờ Lục Tỉnh Tân Văn 
do Trần Chánh Chiếu làm chủ bút. Năm 1916, tại Cần Thơ có tờ An Hà nguyệt 
báo do một công ty in thành lập, trong ban trị sự có Đỗ Văn Y, từng hoạt động 
trong phong trào Duy Tân. 
Về tiểu thuyết, năm 1887 xuất hiện cuốn truyện Thầy Lazaro phiền của 
Nguyễn Trọng Quản. Khoảng 1910, đã có Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần 
Chánh Chiếu, Phan Yên ngoại sử Tiết phụ gian truân của Trương Duy Toản. Năm 
1912, Hồ Biểu Chánh viết tiểu thuyết Ai làm được. Khoảng 1919 – 1920, Nguyễn 
Chánh Sắt lừng danh với tiểu thuyết Nghĩa hiệp kỳ duyên tức Chăng-Cà-Mum. 
Trường Sát-sơ-lu Lô-ba ở Sài Gòn thành lập năm 1885. Cũng từ cuối thế kỷ 
XIX, trường trung học Mỹ Tho được thành lập, đã đào tạo số học sinh có trình độ 
tương đối cao, trở thành thơ ký lên huyện, phủ, đốc phủ. Tính đến tháng 12-1917, 
trường trung học Mỹ Tho là trường duy nhất ở tỉnh. Nhờ địa thế ở vào trung tâm 
đồng bằng, trường này thu hút học sinh từ các vùng Gò Công, Sa Đéc, Vĩnh Long. 
Trong khi ấy, phía Hậu Giang là đất mới, trường trung học Cần Thơ chỉ thành lập 
năm 1926. 
Về trường tiểu học (gồm các lớp đồng ấu, dự bị, sơ đẳng), mỗi xã chỉ có thể 
xây cất nếu đạt con số 900 người đóng thuế (thuế đinh) để có đủ công nha (ngân 
sách) tài trợ về phòng ốc, lương bổng giáo viên. Nếu một xã không đủ con số 900 
nói trên, hai hoặc ba xã mới được mở một trường. Bởi vậy vùng dân cư đông đúc 
của Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long nhờ dân số đông đúc ở thôn quê nên hầu hết ở 
các làng đã có trường học, trong khi phía Rạch Giá, Cà Mau nhiều xã suốt 80 năm 
thuộc địa, trẻ con chịu dốt. 
Ở ba tỉnh đông dân đất tốt, các trường học mở tương đối nhiều tạm gọi là 
dân trí cao, thêm truyền thống cũ về học hành với chữ Nho, khá đồng bộ về lễ 
nhạc đình làng thành hình trước từ thời Tự Đức. Mỹ Tho là đầu mối đường xe lửa, 
xe đò, tàu thủy lên Sài Gòn, là thủ đô thứ nhì của Nam Kỳ thuộc địa. Mỹ Tho, 
Vĩnh Long, Sa Đéc nằm trên sông Tiền giao lưu với Campuchia dễ dàng.Những 
điều kiện trên đây giải thích tại sao, trong tình hình những năm đầu thế kỷ XX, ba 
tỉnh trên là cái nôi của sân khấu cải lương, nhất là Mỹ Tho. 
Về xã hội, trong phong trào Duy Tân đã có chủ trương “di phong dịch tục”, 
thay đổi phong tục cũ, giảm bớt nghi thức khi có đám tang, chống hút thuốc phiện, 
cờ bạc, khuyến khích thể dục thể thao, bỏ mê tín dị đoan và đề xướng nếp sống 
mới như tiếp khách thết đãi theo người Âu, cắt tóc ngắn, bàn việc làm ăn tại nhà 
hàng  
Trong thời gian Đại chiến thế giới lần thứ nhất, giới địa chủ, tư sản làm 
giàu nhanh chóng. Họ thi nhau cất nhà ngói, thậm chí nhà lầu. Nhà ở đã cải cách, 
quần áo, giường ngủ theo tân thời, hằng ngày giao thiệp với công sở với phong 
cách mới: bộ điền, bằng khoán đất, thuế thân, cách xử kiện ở tòa dưới, tòa trên. Xe 
ô tô nhập từ 1906, đến năm 1914 đã phổ biến trong giới điền chủ lớn, tư sản và 
công chức, “trên ô tô, dưới thời ca nô”. Đời sống vật chất đã thay đổi, tất nhiên 
những nhu cầu về tinh thần cũng thay đổi, đó cũng là một trong những nguyên 
nhân dẫn tới sự hình thành một hình thức sân khấu mới phù hợp với xã hội và thời 
đại lúc bấy giờ. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
qua_trinh_hinh_thanh_nghe_thuat_san_khau_cai_luong_tu_ca_ra.pdf